Thảo luận thoát Trung về văn hóa:
Từ nền “văn hoá quỳ lạy” đến văn hoá “thảo dân”
Lê Phú Khải
Trong bài “Giã từ nền văn
hoá quỳ lạy” tôi đã nói đến do ảnh hưởng của Khổng Mạnh, trí
thức Việt Nam
chỉ cốt đi học để làm quan. Để được quỳ lạy trước ngai vàng. Lý thuyết của họ
là cúi đầu trước một người (Vua) để được cưỡi lên cổ trăm người. Khi được làm
quan rồi, họ tiếp tay vua để đàn áp nhân dân. Vì thế, một tâm lý khiếp sợ quyền
lực đã hình thành trong xã hội. Người dân tự nhận mình là “thảo dân”. Thảo là
cỏ. Thân phận người dân được chính họ tự nhận là cây cỏ, là “thảo dân”.
Từ chế độ phong kiến
chuyển sang chế độ toàn trị, tâm lý thảo dân càng có “cơ sở” để phát triển do
người dân bị không chế toàn diện cả về kinh tế lẫn chính trị. Nỗi sợ hãi bao
trùm xã hội. Người dân sợ bị mất sổ gạo (sổ mua lương thực), sợ con bị đuổi
học, sợ bị đi tù.
Từ nỗi sợ đó dẫn đến
tâm lý vâng lời, nghe theo cấp trên để được yên thân. Và, điều tai hại lớn là
sự vâng lời ấy dẫn đến sự bao cấp về tư tưởng. Tất cả đều đã có Trung ương, có
Đảng lo. Nhân dân không phải suy nghĩ gì nữa. Đảng là đúng, cấp trên là đúng,
như một chân lý.
Vì thế mới có câu
cnuyện khôi hài dưới đây:
Khi có chuyện “giá
lương tiền” rồi vụ đổi tiền vào sáng ngày 14/9/1985, cả xã hội náo loạn, dẫn
đến khủng hoảng sâu… Gặp tôi, bác Nguyễn Khắc Viện nói: “Thật là may”. Nghe
thế, tôi hỏi: “Vì sao lại thật là may?”. Bác Viện nói: “Như vậy là dân đã thấy
Đảng cũng sai. Vậy từ nay mọi người phải suy nghĩ bằng cái đầu của mình. Thấy
cái gì sai phải nói, phải lên tiếng phản đối, không thể uỷ thác số phận của
mình cho một nhóm người suy nghĩ và quyết định”.
Văn hoá thảo dân và
sự bao cấp về tư tưởng không phải chỉ có ở dân, ngay cả nhà cầm quyền Việt Nam
cũng bị bao cấp tư tưởng. Cái gì China
làm, Việt Nam
mới dám làm. China chưa làm
thì Việt Nam
chưa dám làm. Tôi nghe nói, khi sắp làm một việc gì lớn, có nhà lãnh đạo Việt Nam đã hỏi:
Trung Quốc đã làm chưa? Việt Nam
luôn đi sau Trung Quốc hàng thập kỷ vì tư duy bao cấp này.
Thoát Trung một cách
mạnh mẽ nhất là thoát tư duy bao cấp.
Chưa thoát được tư
duy bao cấp nên ở nước ta có tình trạng tư duy ngược. Tôi có một anh bạn là học
sinh miền Nam
đi tập kết, học chung trường thời sinh viên với tôi ở đại học ba năm liền. Ra
trường anh làm một chức sắc nho nhỏ. Khi đất nước thống nhất, anh về Sài Gòn
công tác. Một hôm, anh về quê thăm nhà ở huyện Cái Nước, Cà Mau. Anh than với
má anh: “Nhà mình xa quá!”. Bà má anh đã nổi đoá rủa: “Mồ tổ mày, chỉ có mày đi
xa chớ nhà mình đâu có xa!”.
Rõ ràng anh bạn tôi
đã tư duy ngược!
Mà chẳng phải một
vài người, đến ngay cả cơ quan ngôn luận lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam là
báo Nhân Dân cũng tư duy ngược. Báo Nhân Dân có cả một chương mục: Đưa nghị
quyết Đảng vào cuộc sống (!). Vậy nghị quyết Đảng từ trên trời rơi xuống à?
Đáng lý phải có mục
“Đưa cuộc sống vào nghị quyết Đảng”, rồi sau đó mới có mục “Đưa nghị quyết Đảng
vào cuộc sống”. Vì tư duy ngược như thế, nên chẳng cuộc sống nào thi hành nghị
qyết cả! Chỉ khi Đảng thấy sai, sửa, thì nghị quyết mới vào cuộc sống như Khoán
100 của Ban Bí thư, Khoán 10 của Bộ Chính trị vào năm 1988.
Chính Lênin ông tổ
của chủ nghĩa cộng sản, trong tác phẩm “Nhận thức luận” đã từng dạy: “Qui luật
của nhận thức là từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”. Có nghĩa là: Lý
luận nảy sinh từ thực tiễn, đúc kết thực tiễn thành lý luận. Và đến lượt mình,
lý luận sẽ soi đường cho thực tiễn.
Đến
bao giời dân tộc ta và cả Đảng Cộng sản Việt Nam mới thoát khỏi cảnh bao cấp tư
tưởng và tư duy ngược? Nếu không phải là từ lúc này, lúc người anh em Bốn tốt
đã lật kèo bằng cách đưa Giàn khoan khủng HD 981 vào xâm lược nước ta?
* * *
Có lần, Hán Cao Tổ
Lưu Bang (202 trước Công nguyên) nói với Lục Giả: “Ta ngồi trên lưng ngựa mà có
được thiên hạ thì cần gì phải học Thi, Thư…”. Nhưng rồi Hán Cao Tổ cũng nghe
lời khuyên của Lục Giả trọng dụng kẻ sĩ, đề cao Nho giáo để củng cố ngai vàng.
Đến đời Hán Vũ Đế (140 trước Công nguyên) thì đạo Nho trở thành quốc giáo.
Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên, thọ 73 tuổi), người được xem là sáng
lập ra Nho giáo được tôn lên bực thánh, trở thành Vạn thế sư biểu (người thầy
của muôn đời).
Điều cốt lõi của
Khổng giáo là lý thuyết về người quân tử, tức kẻ cai trị đất nước (quân là cai
trị, quân tử là người cai trị). Theo Khổng Tử thì người quân tử phải biết tu
thân, phải có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc… Tu thân rồi, người quân tử
phải dấn thân hành động: tề gia, trị quốc, bình thiên hạ! Người quân tử phải
chính danh để cai trị đất nước. Các triều đại phong kiến sau này đều triệt để
khai thác Khổng giáo, họ biến đổi, “gia cố” Nho giáo thành một triết thuyết cực
đoan có lợi cho giai cấp thống trị. Chữ đạo của Khổng Tử là những mối quan hệ
phải có trong xã hội thời đó như đạo vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn
hữu… sau này chỉ còn ba quan hệ vua-tôi, cha-con, chồng-vợ với cái logic phản
động và phản dân chủ nhất: quân sử thần tử, thần bất tử bất trung (vua bảo
chết, thần không chết là bất trung); phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu (cha
bảo con chết, con không chết là bất hiếu); với phụ nữ thì: tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà thì phải theo cha, lấy chồng thì phải
theo chồng, chồng chết phải theo con).
Trong chế độ phong
kiến, nhân dân đã tiếp thu những “đạo lý” đó như người khát nước uống thuốc độc
để giải khát. Chế độ phong kiến tàn bạo và thối nát ở Trung Quốc đã nhờ triết thuyết
của Khổng giáo mà tồn tại và kéo dài cho đến cách mạng Tân Hợi 1911.
Vì thế, nhà văn hoá
Nguyễn Khắc Viện (1913-1997) đã phê phán Nho giáo một cách triệt để: “Trên
phương diện chính trị, Nho giáo chủ yếu là bảo thủ. Nó bỏ qua vấn đề pháp luật
và thiết chế, từ chối mọi cải cách… Bảo vệ lễ nghi của các triều đại xưa là mối
quan tâm hàng đầu của Khổng Tử. Trong chữ lễ, vương triều Trung Hoa cũng như
Việt Nam đã tìm thấy biện pháp tốt nhất để duy trì sự ổn định của ngai vàng”
(Bàn về đạo Nho – nguyên văn tiếng Pháp đăng trên tạp chí La Pensée số 10-1962
với đề là Confucianisme et Marxisme au Vietnam. Dịch sang tiếng Việt, in trong
Bàn về Đạo Nho – 1993).
Với Khổng giáo, vua
là Thiên tử (con Trời), thay Trời cai trị muôn dân. Vua với nước là một. Yêu
nước là trung với Vua (trung quân ái quốc).
Điều nguy hiểm nhất
của triết thuyết Khổng Tử là: Người quân tử nhờ tu thân mà có vai trò cai trị,
nhưng khi quân tử – tức kẻ cai trị – không tu thân, trở thành những hôn quân
bạo chúa thì dân chúng vẫn phải cam chịu, không được làm cách mạng lật đổ
chúng. Vì thế Nguyễn Khắc Viện mới viết: Khổng Tử từ chối mọi cải cách!
Trong xã hội Khổng
giáo mấy ngàn năm ở Trung Quốc, kẻ sĩ đi học là mong được làm quan. Làm quan để
được quỳ lạy dưới ngai vàng. Cái văn hoá quỳ lạy ấy đã kìm hãm nước Trung Hoa
trong vòng tăm tối mấy ngàn năm. Trong nền văn hoá quỳ lạy ấy, chỉ có kẻ trên
đúng. Chỉ có vua đúng. Vua bảo chết là phải chết. Cha bảo chết thì con phải
chết. Tóm lại là không có chân lý. Hay nói khác đi, không ai đi tìm chân lý cả.
Chân lý đã có sẵn ở kẻ bề trên, ở triều đại chính thống, bất kể nó thế nào!
Điều trớ trêu là văn
hoá quỳ lạy ấy còn tồn tại đến hôm nay ở nước Trung Hoa cộng sản. Tướng Lưu Á
Châu, một nhà bình luận nổi tiếng ở Trung Quốc hiện nay kể rằng, khi ông đi học
một lớp chính trị trong quân đội, thấy thầy giảng chướng quá, ông đứng lên thắc
mắc. Ông thầy liền nói: Tại sao anh dám cãi lại tôi? Tướng Lưu Á Châu thất
vọng, vì thầy đã không dám hỏi: “Vì sao anh lại nói như thế?”, rồi tranh luận
để tìm ra chân lý. Thầy chỉ phán: “Vì sao anh dám cãi lại tôi?!”. Thầy luôn
đúng. Trò không được cãi.
Nước Trung Hoa cộng
sản hôm nay vẫn nguyên hình là một xã hội Khổng Mạnh trá hình mà thôi!
Trong khi đó thì ở
phương Tây, cùng thời với Khổng Tử, Aristote (384-332 trước CN) đã tuyên bố:
“Platon là thầy tôi, nhưng chân lý còn quý hơn thầy!”. Cái văn hoá chân lý quý
hơn thầy ấy đã dẫn dắt phương Tây trở thành một xã hội dân chủ và văn minh đến
ngày hôm nay.
Việt Nam chúng ta
từng một ngàn năm Bắc thuộc, lại luôn chịu ảnh hưởng của người láng giềng hủ
bại Trung Hoa, nên tầng lớp có học của nước ta thấm đẫm thứ văn hoá quỳ lạy của
Trung Hoa. Trí thức nước ta trong mấy ngàn năm lịch sử chỉ lo dùi mài kinh sử
để mong đỗ đạt làm quan, để được quỳ lạy trước sân rồng. Có người già rồi còn
đi thi, suốt đời ăn bám vợ con. Việc làm ra của cải vật chất đều do người phụ
nữ và những người ít chữ gánh vác. Trí thức Việt Nam trong quá khứ không ai học để
làm cách mạng, để thay đổi đất nước. Hình ảnh con trâu đi trước, cái cày theo
sau còn tồn tại đến hôm nay ở nông thôn miền Bắc là kết quả của tư duy làm
quan, tư duy quỳ lạy. Báo chí của Việt Nam hôm nay hay ca ngợi một bà mẹ
đi bán hàng rong mà nuôi được bốn năm người con học đại học. Học để mong kiếm
một mảnh bằng vênh vang với làng xóm! Học để mong kiếm một cái chân trong cơ
quan nhà nước, để trở thành một anh công chức, một anh nha lại, trên bảo dưới
phải nghe.
Khi bàn về việc
trọng dụng đội ngũ trí thức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần nói, đại ý, xung
quanh thủ tướng toàn là những người có bằng cấp cao, thạc sĩ, tiến sĩ… toàn là
trí thức!
Thực ra các vị đó
chỉ là những công chức, không phải trí thức. Mà đã là công chức thì trên bảo gì
dưới phải nghe theo. Nếu không nghe thì “văng” ra khỏi bộ máy quyền lực ngay
lập tức. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện lúc bình sinh có nói với người viết bài này:
“Tư bản Pháp chỉ tuyển chọn vào bộ máy những người đỗ đạt cao. Vì thế, khi vào
một cơ quan công quyền, người ta biết rõ những người ngồi đó đều là người tài
giỏi, vì thế, họ vừa có quyền, lại vừa có uy. Thế mới gọi là uy quyền. Nhưng
quyền uy mấy thì cũng là công chức. Nhân dân Pháp chỉ kính trọng những trí thức
tự do, vì họ dám phản biện xã hội, bảo vệ lẽ phải. Nước Pháp có hàng trăm nghìn
hội đoàn độc lập. Đó là một lực lượng dân chủ hùng mạnh để cân bằng với chính
quyền của giai cấp tư bản”.
Buồn thay, bộ máy
công quyền của Việt Nam hôm nay chỉ tuyển chọn những người “dễ bảo” hoặc biết
“mua bán”. Vì thế nó ngày càng xuống cấp. Có lần, trong một cuộc gặp gỡ có
nguyên Bộ trưởng L.H.N., phó giáo sư tiến sĩ V.T.K. và người viết bài này,
trong lúc vui vẻ, phó giáo sư V.T.K. than phiền với Bộ trưởng L.H.N.: Mấy tay
vụ trưởng đi theo anh chuyến này vô Nam, qua nói chuyện tôi thấy các vị đó dốt
quá! Nguyên Bộ trưởng L.H.N. nói: Ngày xưa dốt là từ cấp thứ trưởng trở lên,
cấp vụ nó giỏi lắm, nay nó dốt xuống đến cấp vụ rồi!!!
Từ nền văn hoá làm
quan, văn hoá quỳ lạy, đã hình thành một tâm lý xin-cho trong xã hội. Khi nhóm
Cánh Buồm của nhà giáo Phạm Toàn soạn thảo bộ sách Học tiếng Việt cho học sinh
lớp 1 theo hướng cải cách giáo dục, tôi đến chơi một người bạn cũ từng là một
quan chức cao cấp, từng ở nước ngoài nhiều năm, có học thức cao… và tặng ông
một trong các cuốn sách Học tiếng Việt đó. Cầm sách trong tay, ông nói ngay: Họ
không cho lưu hành đâu anh ạ! Thì ra cái tâm lý xin-cho đã ngấm vào xương tuỷ
giới trí thức nước ta. Trên phải cho thì dưới mới được làm! Dù chưa ai cấm đoán
bao giờ!
Ít lâu sau, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa
cho học sinh phổ thông học. Thế là tôi viết giới thiệu bài tập đọc “Lễ thả
thuyền ra Hoàng Sa…” đã có trong sách Tiếng Việt lớp 1 của nhóm Cánh Buồm. Báo
Người Lao động TP HCM đã đăng ngay bài đó trong tháng 1-2014 (vì… Thủ tướng đã…
cho… nói về Hoàng Sa và Trường Sa!!!).
Ngày nay nước ta đã
manh nha kinh tế thị trường, có bao nhiêu điều kiện và cơ hội để học làm người
tự do, làm khoa học, làm chuyên môn, làm nghề… làm ra của cải cho một đất nước
“đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên) thì trí thức nước ta cần mau chóng giã
từ nền văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy có cội nguồn từ văn hoá Khổng Mạnh
Trung Hoa để canh tân đất nước.
Để kết thúc bài viết
này, tôi xin kể một câu chuyện về giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, ông sinh năm 1941
tại xã Điện Thắng Bắc huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam. Hiện ông là một Việt kiều
ở Bỉ, hoạt động trong lĩnh vực khoa học không gian. Ông là một nhà khoa học rất
nổi tiếng, là “một trong 10 người làm thay đổi nước Bỉ” như cách nói của chính
phủ Bỉ. Ông giảng dạy ở bậc đại học đã nhiều năm, từng là trưởng Khoa Cơ học
phá huỷ thuộc Khoa Kỹ thuật không gian Đại học Liège. Một ngày kia, đồng nghiệp
của ông “phát hiện” ra ông chỉ có bằng kỹ sư, chưa có bằng tiến sĩ như bao đồng
nghiệp khác đang làm việc cùng ông. Người ta đề nghị giáo sư Nguyễn Đăng Hưng làm
hồ sơ để thi tiến sĩ. Khi giáo sư Hưng tập hợp các công trình mình đã làm và đã
được ứng dụng trong sản xuất để trình Hội đồng, chuẩn bị cho luận án tiến sĩ sẽ
làm, thì Hội đồng nhất trí cao rằng ông xứng đáng là tiến sĩ từ lâu rồi, khỏi
cần thi! Tại một quán càfê ở đường Phạm Ngọc Thạch Quận 1 TP HCM cuối năm 2013
vừa qua, giáo sư Hưng tâm sự với chúng tôi: Mải làm việc quá nên tôi… quên làm
tiến sĩ.
Bao giờ
cái văn hoá học để làm việc thay thế được văn hoá làm quan, văn hoá quỳ lạy
trong giới tinh hoa ở nước ta, thì Việt Nam mới mở mày mở mặt được.
Cát Bụi gửi hôm Thứ Hai, 18/08/2014
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét