Chuyện cứt
Theo wikipedia dictionary thì cứt là phân của người hay động- vật thải ra khi
ỉa! Còn tự- điển tiếng Việt thì cứt
là phân của người hay động- vật .Thật là những định -nghĩa vì muốn tránh
những danh từ cho là thô- tục mà thành ra tối nghĩa vì phân đã là
cứt rồi. Định- nghĩa chính xác phải như sau : Cứt là cặn bã ở trong bụng người
hay động vật được thải ra (ỉa) qua lỗ đít.
Con người hay
động- vật muốn sống thì phải ăn ,khi thức ăn vào bụng thì những chất bổ sẽ
nuôi cơ thể và những cặn bã còn lại sẽ được tống ra .Quá trình này được
xảy ra nhịp nhàng giữa đầu vào và đầu ra. Mọi sự rối loạn ở hai đầu này
sẽ phát sinh ra hệ- lụy có thể làm người hay sinh vật bị hoại- vong!
Để dễ nói chuyện chúng ta sẽ khảo sát
riêng về cứt người cho tiện.
Đặc- tính chung
của cứt là thối (miền Bắc) thúi (miền nam). Con người dù giàu có,ăn cao- lương
mỹ- vị hay nghèo khó ăn mắm mút dòi, là ông vua hay thằng ăn mày,là hoa hậu hay
thị Nở ,anh- hùng hay tiểu- nhân thì cứt cũng đều thúi .Cái đó là cái bình-
đẳng nhất của ông trời .Bởi vậy khi nói thúi như cứt thì cứt này là chung cho
mọi loại người trong xã hội.
Nhưng cái sự cho cứt ra
(ỉa) bằng lỗ đít thì không phải mọi người, mọi xứ đều giống nhau .Thoạt- kỳ-
thủy thì có thể có biểu hiện giống nhau vì chỉ đơn- giản là tống cứt ra
ngoài ở đâu cũng được, cốt sao cho khỏe cái bụng. Vả lại, ngày ấy đất
rộng, người thưa ỉa đâu chẳng được miễn là xa chỗ ở để khỏi bị cái thúi xông
vào mũi là xong. Nhưng với thời gian và sự tiến hóa của nhân loại.Người mỗi
ngày một đông, đầu óc cũng nẩy nở thêm thì cái sự ỉa đã được đặt thành vấn đề
.Bởi vì cứt thì thúi, mà thúi thì dơ dáy .Không ai muốn cho người khác thấy sự
dơ dáy của mình nên chỗ ỉa phải kín đáo và vì thế nên mới có sự ra đời của cái
cầu tiêu!
Cầu tiêu là cái
nơi kín đáo để người ta ỉa và dĩ nhiên là chỗ chứa cứt.Chứ không phải như
tự điển tiếng Việt đơn-giản cho rằng cầu tiêu là nơi có chỗ ngồi để đại
tiện. . Chưa có cuộc khảo sát nào chính- thức cho biết cầu tiêu xuất hiện
trên thế- giới từ bao giờ .Trong sử sách từ Đông sang Tây cũng chưa bao giờ có
đề cập đến việc ỉa đái của các ông vua bà chúa ngày xưa và trong cung vua phủ
chúa ấy cũng không biết có cầu tiêu hay không? Từ đó mà suy ra thì từ lúc có
mặt trên trái đất đến một thời gian rất dài tận sau này con người toàn ỉa
bậy. từ vua chúa đến thường dân .Hiện nay tại Ấn- Độ vẫn còn nhiều làng
mạc người dân không có cầu tiêu và cứ sáng sớm đàn bà con gái phải lũ
lượt tay cầm chai nước ,rủ nhau đến chỗ đồng không mông quạnh mà ỉa , sở
dĩ phải như thế vì trời tối không ai nhìn thấy với lại thời nào thì cũng có
những kẻ xấu cứ chờ phụ nữ sơ hở là làm những chuyện trời ơi ! Thật khổ cho đàn
bà con gái xứ này vì lỡ mắc ỉa khác giờ hay ỉa chảy thì sao?Không thấy
Đài BBC nói về trường- hợp đặc biệt này.
Sở dĩ phải nói
dài dòng như vậy để mọi người thấy rằng quá trình tiến- hóa từ ỉa bậy đến cái
cầu tiêu tự- hoại bây giờ quả là khó khăn gian khổ và lâu dài thế nào.
Thoạt đầu thì có
thể là do ngai đi xa,lại có khi mưa gió nữa nên người ta đã tìm cách thiết kế
một chỗ gần nhà để ỉa cho tiện.Muốn cho thoải mái và ít bị mùi thúi xông lên
mũi ,người ta nghĩ cách làm cái chỗ ngồi ỉa cao hơn chỗ cứt rơi và có lẽ vì thế
nên mới có danh từ cầu tiêu nghĩa là ngồi trên cao để tiêu hóa. Nhưng cách gì
thì rồi ỉa nhiều cũng có mùi nên thường thì người ta làm cầu tiêu để ở nơi xa
nhà.
Thật ra cầu
tiêu là tên gọi của miền Nam .Miền Nam sông nước nhiều nên người ta hay bắc một
cái cầu nhỏ ven sông để ngồi lên đó mà ỉa ,cứt sẽ trôi theo con nước,lâu dần có
người tận dụng lấy cứt nuôi cá nên họ đào ao thả cá rồi làm cầu trên ao để ỉa.
Thật là tiện : Cá có cứt để ăn không cần cung cấp thực phẩm ,lại được ỉa gần
ngay nhà mà không hôi thúi .Đến lứa thì hốt cá đem bán. Để tượng- thanh có
người gọi dây là “ cầu tõm “mô tã âm- thanh khi cứt rơi xuống nước. Cầu tiêu
thường được bắc từ bờ ra sông hoặc ao khoảng 2, 3 m.Trên cầu có thiết kế chỗ
ngồi được che chắn bằng gỗ tạp hoặc lá dừa nước cao khoảng 6,tới 7 tấc,sao cho
người sử dụng chỉ cần dở cao chân là bước vào ỉa được và khi ngồi ỉa thì yên
tâm chỉ còn ló có phần ngực trở lên, không ai nhìn thấy cái hạ bộ của mình. Ở
những xóm làng đông dân có khi người ta làm cả một dãy 5, 7 cái để bớt phải chờ
chực.
Ngoài Bắc thì
không gọi là cầu tiêu mà là chuồng xí hay hố xí. Tự điển tiếng Việt ghi
chuồng xí là nơi thường được che chắn sơ- sài để làm chỗ đi đại tiện. Nhà quê
thì thường người ta dùng lá hay bao bố , mành tre quây lại trên một cái hố có
bắc hai khúc cây để ngồi ỉa nên gọi là hố xí . Ở thành phố thì người ta
xây ở sau nhà một cái phòng khoảng hơn một mét vuông,như cái chuồng, cao hơn
mặt đất khoảng 1 mét nên gọi là nhà xí hay chuồng xí .Phía dưới để một
cái thùng đựng cứt ,để trống phía sau cho người làm vệ sinh lấy phân khi đầy
thùng.Phía trên là một tấm đan có đục một cái lỗ diện tích khoảng hai tấc
vuông. Người sử dụng phải vén khéo sao cho cứt, đái rơi gọn vào cái lỗ đó rồi
rơi xuống thùng. Trong nhà xí còn có một thùng đựng tro để đổ lên những chổ rơi
rớt cho bớt thối,một thùng đựng giấy chùi đít và một miếng ván có chỗ cầm để đi
xong thì đậy cái lỗ lại , ngăn chặn bớt ruồi bọ hoặc mùi cứt bay lên. Loại nhà
xí này đến đầu thập niên 80 Hà Nội vẫn còn.
Có thể hơi
quá đáng để mường tượng so sánh cho dễ hiểu khi nói :Cầu tiêu giống như cái
giàn khoan HD 861 ở Biền- Đông còn nhà xí thì như Tử Cấm Thành ở Bắc- Kinh vậy!
Vào đầu những năm
60. Khi ở Trung Quốc chủ trương đèn đỏ là đi, đèn xanh là ngừng vì màu đỏ
là màu cách mạng, mà cách mạng chỉ có tiến chứ không có ngừng,. Khi ở
miền Bắc lập thành tích cấy lúa dầy đến nỗi trẻ con có thể đứng trên bụi lúa
được thì miền Bắc cũng đã có được một phát minh khoa học mà Nhật- Bản
phải cho rằng đây là một trong bảy công- trình của khoa học trong thế kỷ 20: Đó
là Hố Xí 2 ngăn.
Hố xí 2 ngăn được
thiết kế theo kiểu cái hố chứa cứt được chia làm 2 ngăn . Ngăn này để ỉa
còn ngăn kia ủ phân. Nghe nói loại hố xí này vệ sinh cực- kỳ và dân nông thôn
đa- số nhà nào cũng có để lấy phân làm nông- nghiệp. Tiếng là vệ sinh cực- kỳ
nhưng cũng vẫn còn hôi thối nhưng người ta vẫn phải làm ở gần nhà vì sợ bị xúc
trộm cứt.
Nhà nước cũng có
những nhà xí tập- thể .Để khai thác cứt cho có hiệu quả , gọn ghẽ, vệ sinh hơn
nên có qui- định rõ ràng .Qui- định này được ghi trên một cái bảng màu
hồng khổ 40 x 60 như sau :
QUI ĐỊNH VỀ ĐI ỈA.
-Tất cả nam ,nữ
đi ỉa phải đến nơi qui đinh.
-Phải ỉa
đúng lỗ.
-Nếu là chuồng xí
máy, ỉa xong phải tháo nước, bỏ giấy vào thùng đã qui định.Nếu không phải là
chuồng xí máy thì thôi.
-Ỉa xong
phải rửa tay sạch sẽ.
Thời- kỳ
chiến- tranh vấn đề phân, giống rất gay go vì thế, có được một nguồn cứt
người dồi- dào để làm phân bắc thì quả là trời đã ban cho miền Bắc một
món quà vô giá. Người người làm phân , nhà nhà làm phân ,nông nghiệp đã tiến-
triển rõ nét và người dân đã phấn- khởi ghi ơn người có công phát- động chiến-
dịch này bằng câu :
Hoan
hô anh Nguyễn Chí Thanh.
Anh về phân bắc , phân xanh đầy đồng.
Đúng ra thì việc
sử dụng cứt người làm phân để trồng- trọt đã có từ lâu lắm rồi.Từ những ngày
xa xưa người dân làng Cổ- Nhuế thuộc Huyện Từ- Liêm Hà- nội đã có nghề truyền-
thống làm phân bón bằng cứt người để thâm- canh lúa và hoa mầu nổi tiếng.
Có câu : Đào Nhật -Tân , phân Cổ-
Nhuế.
Người dân làng
này sống bằng nghề hốt cứt, có đền thờ Thành -Hoàng hẳn hoi,ông này sống bằng
nghề hốt cứt, trong đền thờ người ta để một đôi quang gánh cùng 2 mảnh xương
trâu cầm tay . Người làng Cổ- Nhuế đời này sang đời khác thay phiên nhau làm
sạch cho Thủ- Đô Hà- Nội và đã từng được vua Lê –Thánh- Tôn ban cho 2 câu thơ ;
Khoác tấm áo bào giang tay gánh vác
thiên- hạ.
Vung hai thước kiếm tận- thu lòng dạ
thế- gian.
Đến cuối thập niên 50 thì nghề hốt cứt bị nghiêm cấm, chính quyền
xem những người hành nghề này là trốn lao- động , bỏ công việc tăng- gia đi
buôn cứt.Thời gian này những bãi cứt vô chủ thi nhau xuất hiện khắp Hà- Nội.
Phải đợi đến năm
1986 ,sau Đại- Hội đổi mới của Đảng , đất đai được trao lại cho nông dân canh
tác thì nghề trồng rau ở ngoại thành Hà- Nội sống lại và người làng Cổ- Nhuế
mới lại được tự do đi hốt cứt và bán cứt . Với quan niệm rau xanh dứt khoát
phải được bón bằng phân bắc thì ăn mới ngon ,thơm , ngọt chứ bón bằng phân hóa
học ăn nhạt thếch chẳng có mùi vị gì nên người ta tranh nhau trồng rau Xanh
bằng phân bắc. Hậu quả là cứt có giá và người ta tranh nhau đi hốt cứt . Trước
tình hình lộn xộn này Ủy- Ban Nhân- Dân Thành- Phố Hà- Nội phải ra
qui- định dân ngoại thành không được phép tự do vào thành- phố hốt cứt và bán
cứt nữa.
Thế là từ đây chỉ có dân Hà- Nội mới được
khai- thác nguồn cứt dồi- dào của dân nội thành nhưng ở nội thành thì làm gì có
nhiều đất để canh- tác .?Kết quả là cứt tiêu thụ trong nội thành dư thừa phải
chuyển ra bán cho ngoại thành mà ngoại thành thì không làng nào có kinh- nghiệm
trồng trọt và buôn bán cứt bằng Cổ- Nhuế!
Thế là nguồn cứt lại trở về với Cổ- Nhuế.
Thời- kỳ kinh- tế
thị- trường làm ăn cũng phải đổi mới nên người Cổ- Nhuế đã lập ra một cái
chợ chỉ mua bán duy nhất một mặt hàng là cứt người ,cái chợ mà chỉ ta mới có.
Chợ có hẳn một Ban Quản- Lý chợ để điều hành công việc mua bán. Người tham- gia
phiên chợ phải có mặt vào khoảng 3 giờ sáng và tan chợ trước khi trời
sáng.Trong sinh- hoạt không được lớn tiếng, càng im lặng càng tốt. Nếu có tranh
chấp về chất lượng cứt hay giá cả thì phải tuyệt- đối nghe theo sự phân- xử của
ông chủ chợ. Khi ông phán cứt nạc thì dứt khoát là tốt ,còn nếu nói cứt lỏng
phải bớt một giá thì cứ thế mà làm ,cấm cãi vì ông là người lớn tuổi, đã có
thâm- niên trong ngành cứt nên không nói sai bao giờ. Tất cả các thùng cứt ông
chỉ cần thọc cái que tre tới đáy ,kéo lên ngửi rồi dùng 2 ngón tay bóp thử xem
độ dính là ông biết ngay cứt có nạc hay không ngay. Ông chủ chợ cũng đồng thời
ở trong ban quản- lý và ban thẩm- định cứt để chống lại bọn làm cứt giả .Đã có
những bọn dùng thân cây chuối băm nhỏ ,giã dập trộn với đất sét cho vào ống nứa
thụt ,rồi trộn chung với cứt . Trường hợp này thì chỉ cần thọc hai tay
vào thùng cứt bóp cái là biết ngay .Chỉ sau vài lần là những đứa làm cứt giả bị
lật tẩy và bị cấm cửa, không cho vào chợ.
Ngoài việc thẩm- định người ta cũng chia
cứt ra làm 4 loại.
Thứ nhất là cứt lấy ở khu Ba- Đình .Ở đây
toàn là quan- chức ,ăn đồ ăn ngon nên cứt nạc.( danh từ chỉ cục cứt rắn, chất-
lượng cao)
Thứ hai là khu Hoàn- Kiếm. Nơi đây toàn
dân buôn bán và nhà hàng.
Thứ ba là khu Hai Bà Trưng, Đống- Đa .Dân
lao- động nhiều ăn toàn rau nên cứt mờ,lõng bõng nước.
Thứ tư là khu ngoại thành . Dân nhà quê
nghèo ăn toàn là rau muống nên cứt xanh lè.
Cứt đặc biệt lâu lâu mới có là cứt ngoại
.Cứt này được lấy từ hầm phốt của đại sứ quán của các
nước.!Nhà nước không chủ-trương nhập cứt.
Ngày nay thời thế
đổi thay ,quan- chức , người giầu không dám ăn nhiều thịt cá , chuyển qua ăn
rau mà phải là rau sạch. Rau trồng bón phân bắc có nhiều vi- khuẩn
độc- hại không ai dám dùng . Cầu- tiêu, chuồng- xí được thay bằng cầu-
tiêu tự- hoại .Ngành cứt vì thế cũng bị lụi tàn .Chợ cứt Cổ- Nhuế theo
thời- đại đã biến chuyển thành chợ tình. Không bán cứt nữa thì bán trôn
vậy!
Thôi thì dù sao cũng an ủi rằng chợ vẫn
buôn bán những thứ ở dưới hạ bộ
Việt-Nam
với dân số 90 triệu , trung bình mỗi người một ngày ỉa ra ½ kí cứt thì mỗi ngày
ta thu hoạch được 45.000 tấn cứt . Trời ơi ! với số cứt này mà làm phân
bón thì sản phẩm lương- thực do nó tạo ra ít nhất cũng nuôi nổi 1 tỷ 300
triệu người!
Đạo Sĩ Thúi.
__._,_.___
Phụ lục :
Cái hố xí hai ngăn ở Miền Bắc những năm 60 TK trước là
sáng kiến của Bác sỹ Phạm Ngọc Thạch , hồi đó là Bộ trưởng Bộ Y tế. Báo chí
ngày đó ca ngợi cho đây là một sáng kiến vĩ đại của nền y hoc VN. Chỉ riêng Bác
sỹ Đặng Văn Ngữ là phản đối. Vốn là môt chuyên gia về nghành ký sinh trùng ,
ông cho cái hố xí hai ngăn đó là nơi nuôi dưỡng ký sinh trùng rất có hại cho
con người . Để chứng minh cho sáng kiến của mình là vô hại, ông Thạch đã bầy
một cục phân khô lên bàn làm việc của mình tai Bộ Y tế như một vật trang trí. Nhưng
ông Ngữ vẫn khăng khăng giữ quan điểm : chỉ có hố xí có bể phốt tự hoại
mới đảm bảo vệ sinh. Chỉ vì quan điểm khác nhau về cái hố xí hai ngăn
mà hai ông bác sỹ bằng mặt chứ không bằng lòng. Sau khi ông Ngữ hy sinh
tại Trị Thiên năm 1967 trong khi nghiên cứu vacxin chống sốt rét , ông Thạch đã
nói với các con ông Ngữ : "Đến bây giờ Bác mới hiểu hết Ba các cháu".
Hố xí hai ngăn nhanh chóng đi vào quên lãng, không còn ai nhắc tới sáng kiến vĩ
đại này nữa !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét