'Sau bức màn đỏ" By Hoàng Dung (Trích đoạn )
Trong dịp đại hội lần thứ VII này đã xảy ra tranh chấp giữa Lê Ðức Anh và Võ Nguyên Giáp. Vì uy tín của Võ Nguyên Giáp vẫn còn quá lớn trong quân đội, trong hoàn cảnh khủng hoảng ý thức hệ, Võ Nguyên Giáp được một số đại biểu quân đội dự định đưa ra để cứu vãn uy tín của đảng Cộng sản. Trong thời gian này, Lê Duẩn đã chết, Lê Ðức Thọ đã hết thực quyền nên Võ Nguyên Giáp có rất nhiều hy vọng được quân đội ủng hộ. Lê Ðức Anh sợ mất địa vị nên đã sử dụng cục Quân báo (cục 2) của Bộ Quốc Phòng để tạo ra một bản báo cáo nhan đề “Tình Hình Hoạt Ðộng Bè Phái Trong Ðảng”, sau đó dùng uy thế của mình cùng Nguyễn Ðức Tâm để lấy danh nghĩa Bộ Chính Trị phổ biến cho các đại biểu quân đội nhằm triệt hạ uy tín Võ
Nguyên Giáp. Bản báo cáo kể lại có hai đảng viên Cộng sản miền Nam (Hồ Văn Châu hay Năm Châu, một sĩ quan về hưu trong hội Cựu chiến sĩ, và Nguyễn Thị Sứ, hay Sáu Sứ, trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc) cùng một số đảng viên khác ra Hà Nội để vận động cho Võ Nguyên Giáp làm Tổng bí thư, từ đó Trần Văn Trà sẽ làm bộ trưởng Quốc phòng, Trần Văn Danh (từng làm tư lệnh phó quân khu VII cho Trần Văn Trà) sẽ làm bộ trưởng Công an. Những ủy viên trung ương đảng được nghe chứng cớ là những băng ghi âm ngụy tạo.
Vì Võ Nguyên Giáp tuy mất chân trong Bộ Chính Trị nhưng vẫn được tham dự đại hội, nên khi được lên tiếng, ông phủ nhận mọi lời tố cáo. Ông còn cho biết đã bị Lê Ðức Thọ chèn ép trong đại hội VI năm 1986. Trong bức thư gửi trung ương đảng để phân trần, Võ Nguyên Giáp vẫn nuôi tham vọng trở lại chính trường nên ngoài việc phủ nhận vụ Sáu Sứ, ông tự thấy mình “còn khả năng, nhất là về lý luận và chiến lược” và “tự xác định là không nên tự mình xin rút” (về hưu). Ðể lấy lòng phe bảo thủ, Võ Nguyên Giáp còn khoe là mình đã nhiều lần “nghiên cứu với Ðỗ Mười”, “trao đổi với Ðào Duy Tùng”, “khuyên Trần Văn Trà nên hòa thuận với Lê Ðức Anh”, cũng như “không tiết lộ những bất hòa giữa Hồ chí Minh và Trần Phú” vì
có thể làm xấu mặt đảng.
Tuy nhiên, lúc đó Lê Ðức Anh đã củng cố được địa vị, cho nên trong đại hội đảng lần thứ VII, Võ Nguyên Giáp đã không được cử cho làm một chức vụ gì mà sau đó còn bị Lê Ðức Anh cùng phe cánh loại trừ luôn ra khỏi trung ương đảng. Ngoài vụ Sáu Sứ, lý lịch cũ của Võ Nguyên Giáp là con nuôi của chánh sở mật thám Marty, và đơn xin du học với những lời lẽ khẩn khoản trong hình thức cũng bị lôi ra kết tội, dù cho điểm đen của lý lịch này đã được Hồ chí Minh dùng uy tín của mình để giúp cho Võ Nguyên Giáp minh oan từ năm chục năm trước. Vì bị chèn ép như thế, kể từ lần đại hội VII cho đến hơn mười năm sau, hầu như lần đại hội đảng nào Võ nguyên Giáp cũng gửi thư cho trung ương đảng khiếu nại. Một phần vì uy thế của Lê Ðức
Anh vẫn còn, phần khác vì các đầu não của đảng không muốn phanh phui những xấu xa nội bộ nên đại hội nào cũng tìm cách trì hoãn, nói là đại hội sau sẽ giải quyết, và cuối cùng đến đại hội X thì bị cho đó là “những vấn đề lịch sử, quá cũ”. Ðể thẳng tay triệt hạ uy tín Võ Nguyên Giáp, mấy năm sau, Lê Ðức Anh còn cho một thân tín của mình là Ðặng Ðình Loan viết cuốn sách “Ðường Thời Ðại”, trong đó mục tiêu chính là kể xấu Võ Nguyên Giáp và đề cao Lê Ðức Anh. Cuốn sách được vây cánh của Lê Ðức Anh là Trần Hoàn, bộ trưởng Thông tin cùng Lê Khả Phiêu, chủ nhiệm tổng cục Chính trị tài trợ và Tướng Ðoàn Chương, em ruột Ðoàn Khuê, đang là giám đốc nhà xuất bản Quân Ðội Nhân Dân in, phát hành, quảng cáo và phổ biến rộng
rãi trong quân đội (2). Sau đó, Lê Ðức Anh còn cho thực hiện một cuốn phim tài liệu về đời của mình để chiếu trên truyền hình, trong đó đưa ra một nhân chứng xác nhận Lê Ðức Anh đã đỗ tú tài và vào đảng năm 1938. Nhân chứng này là anh ruột ông ta. Ðồng thời, cuốn “Những Kỷ Niệm Về Lê Duẩn” của Trần Quỳnh cũng được tung ra, Trần Quỳnh là cựu trợ lý của Lê Duẩn và từng được Lê Duẩn cất nhắc làm phó thủ tướng, Trần Quỳnh kể lại trong buổi họp của Bộ Chính Trị về vụ án xét lại, Võ Nguyên Giáp đúng ra đã bị loại nhưng được Lê Duẩn can thiệp và giữ lại vì thời gian đó Việt Nam đang cần viện trợ của Liên Xô. Vì thế mà Võ Nguyên Giáp rất sợ Lê Duẩn. Trong cuốn sách, Trần Quỳnh đã ca ngợi “Bộ Chính Trị là những
người con ưu tú nhất và đáng kính nhất của dân tộc”, nhưng nội dung cuốn sách lại chê bai hầu hết những “người con ưu tú nhất” này, chẳng hạn Võ Nguyên Giáp hèn, Lê Ðức Thọ nham hiểm, Phạm Văn Ðồng và Trường Chinh đón gió, Hoàng Văn Hoan bội phản... Ngoài ra, một lá thư nặc danh khác, nhan đề “Ðại Tướng Võ Nguyên Giáp, Anh Văn Của Chúng Ta”, gán cho Võ Nguyên Giáp 7 tội, trong đó có tội quan hệ tình ái lăng nhăng với vợ của nhà văn Ðào Vũ khi bà này đến dạy nhạc tại nhà cho con của Võ Nguyên Giáp cũng được gửi đi khắp nơi.
Phe ủng hộ Võ Nguyên Giáp cũng phản công, tung ra một lá thư khác, tố cáo Lê Duẩn hai ba vợ và lạm dụng quyền thế, Lê Ðức Thọ hiểm độc, Lê Ðức Anh ngoài việc khai man lý lịch còn hành hạ công nhân khi làm cai phu, Phạm Hùng là tình nhân của Nguyễn Thị Trung Chiến, Võ Chí Công là bố vợ của Thân Trọng Hiếu, người đã biển thủ hơn 40 triệu.
Do sự cởi mở phần nào tự do báo chí mấy năm trước, những bất mãn của nhân dân bắt đầu được phơi bày, một số những lạm dụng của đảng viên cao cấp bị công khai tố cáo, ưu quyền của giai cấp cầm quyền mới bị đe dọa, đồng thời cuộc sống kinh tế của quân đội cũng như bộ đội phục viên bị khó khăn, khối đảng viên bảo thủ này đã qui trách nhiệm cho Nguyễn Văn Linh và loại ông này ra khỏi chức tổng bí thư, dù cho Nguyễn Văn Linh trong hai năm cuối của nhiệm kỳ đã cố gắng xoa dịu họ bằng cách đưa ra những biện pháp kiểm soát cứng rắn, chẳng hạn như loại bỏ Tướng Trần Ðộ, bắt giữ những người đòi hỏi tự do dân chủ như Nguyễn Hộ, Tạ Tá Tòng, Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế... Do áp lực của Trung Hoa, Nguyễn Cơ Thạch bị loại ra
ngoài Bộ Chính Trị cũng như trong chính phủ. Vì ảnh hưởng của Lê Ðức Thọ suy yếu dần, Nguyễn Ðức Tâm cũng mất chức. Cũng do áp lực Trung Hoa, Mai Chí Thọ không được đề cử làm ủy viên trung ương đảng vì Mai Chí Thọ khi phụ trách công an thành phố HCM đã có dính dáng đến vụ đàn áp, tịch thu tài sản và trục xuất người Hoa trong những năm của phong trào thuyền nhân vượt biên. Võ Chí Công từ chức vì lý do tuổi tác. Trong đại hội đảng lần thứ VII, người bị chỉ trích nhiều nhất là Trần Xuân Bách. Ông ta không những mất chức ở Bộ Chính Trị mà còn mất luôn địa vị ủy viên trung ương đảng. Trong Bộ Chính Trị mới được bầu ra, ngoài Tổng Bí Thư Ðỗ Mười, người có nhiều quyền lực nhất là Lê Ðức Anh. Tuy nắm giữ chức Chủ tịch Nhà
nước, một chức vụ trước kia chỉ là hư vị, nhưng trong thời gian của Lê Ðức Anh, Lê Ðức Anh được giao nhiệm vụ giám sát cả ba ngành quốc phòng, ngoại giao và an ninh. Ðảng Cộng sản lúc đó vì sợ quyền hành tập trung vào một người sẽ xảy ra trường hợp Gorbachev bên Liên Xô nên đã tăng cường quyền lực cho Lê Ðức Anh. Do sự cần thiết của đổi mới kinh tế, Võ Văn Kiệt được đứng hàng thứ ba trong Bộ Chính trị. Ðồng thời, vì ông là người miền Nam (Ðỗ Mười người miền Bắc, Lê Ðức Anh miền Trung) cho nên dù nhiều khi phải đối chọi với khuynh hướng bảo thủ của Ðỗ Mười và Lê Ðức Anh, địa vị của Võ Văn Kiệt vẫn vững vàng trong nhiều năm. Khi còn làm bí thư thành ủy thành phố HCM, trước thất bại của chính sách kinh tế nhà nước,
Võ Văn Kiệt đã lập ra một ban cố vấn kinh tế, đứng đầu là cựu phó thủ tướng VNCH Nguyễn Xuân Oánh và nhờ đó, đã sớm thi hành những đường lối kinh tế cởi mở. Trong Bộ Chính Trị, Võ Văn Kiệt cùng với Phan Văn Khải, cũng là người miền Nam, là hai người cởi mở nhất trong một Bộ Chính Trị bảo thủ. Nhờ đó mà nông nghiệp của vùng Ðồng Bằng Sông Cửu Long và những xí nghiệp tư nhân của thành phố Hồ Chí Minh trở nên nguồn phát triển tài lực chính của kinh tế Việt Nam (3). Cũng nhờ Võ Văn Kiệt, Nguyễn Xuân Oánh năm 1987 được bầu làm đại biểu Quốc Hội cùng với bà Ngô Bá Thành. Ðến kỳ bầu cử này, đà đổi mới bị ngưng trệ, Nguyễn Xuân Oánh không được Mặt trận Tổ quốc đưa ra ứng cử, bà Ngô Bá Thành được đưa ra, nhưng dù
được đảng cho ứng cừ 10 người thì trúng cử hết 9, bà Thành lọt vào trong số người thất cử hiếm hoi đó. Trả lời câu hỏi của đài BBC, bà nói là vì có “gian lận” (4).
Do sự ưu thắng của phe bảo thủ trong Bộ Chính Trị, chiều hướng ngoại giao nghiêng về ý thức hệ và nhượng bộ Trung Hoa đã lấn áp chiều hướng “đa phương hóa một cách quân bình”. Sự coi trọng đặc tính “xã hội chủ nghĩa” và bỏ qua đặc tính “bành trướng” của Trung Hoa của phe bảo thủ xuất phát từ sự sống còn của đảng Cộng sản và sự bất an của nhóm lãnh đạo. Ngoài ra, khối quân đội, từng được ưu đãi trong thời chiến, bị quên lãng trong mấy năm đổi mới, bị mất uy tín khi phải rút quân khỏi Căm Pu Chia, bị quân Trung Hoa lấn áp cả trên bộ lẫn trên biển và nhất là những cấp chỉ huy đều là những đảng viên trung kiên nên đã cùng với khối công an hợp thành một khối bảo thủ vững chắc. Do sự suy sụp của Liên Xô và khối
Ðông Âu, sợ rằng những “thế lực thù nghịch” sẽ lật đổ chế độ, vai trò của quân đội được coi trọng hơn, do đó mà Lê Ðức Anh dù là chủ tịch Nhà nước, đã có rất nhiều quyền hành để thao túng chính phủ, và hơn một năm sau, phe quân đội lại càng được tăng cường khi Lê Khả Phiêu được đề cử thêm vào Bộ Chính Trị. Dù lúc nào cũng cảnh giác với tham vọng của Trung Hoa, nhưng trước nguy cơ tan rã, quân đội luôn luôn nghiêng về ý thức hệ và càng chủ trương thân thiện với Trung Hoa. Kẻ địch phải cảnh giác của báo Quân Ðội Nhân Dân kể từ lúc đó không phải là những lực lượng quân sự nào mà luôn luôn là những “diễn biến hòa bình”,(5). Sau chuyến đi của Lê Ðức Anh sang Trung Hoa năm 1991, lần lượt nhiều tướng lãnh Việt Nam cũng
sang kết thân như Vũ Xuân Vinh (cục đối ngoại quân đội), Ðoàn Khuê, Lê Khả Phiêu (khi còn là chủ nhiệm Tổng cục Chính trị), Ðào Ðình Luyện...
-----------------------------------
Ủn chắc sẽ chết sớm...vì bị đầu độc.
http://motthegioi.vn/tieu-diem/bao-dai-loan-ong-kim-jong-un-co-the-dang-bi-quan-thuc-tai-gia-106495.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét