Đọc hồi ký Trần Văn Giàu, suy nghĩ về ba
ông họ Trần
Tháng Tư 26, 2011 — Lê Mai
“Câu chuyện mười năm đã kết thúc” khép lại hồi ký Trần
Văn Giàu, bằng một cuộc gặp gỡ đầu năm 1988 với Lê Đức Thọ – bấy giờ là cố vấn
Ban chấp hành TW ĐCS VN. Trần Văn Giàu: “từ 1954 đến 1976, anh Thọ chưa hề đến
nhà riêng tôi, chưa hề gọi tôi lên văn phòng hay nhà riêng của anh. Còn tôi thì
tôi quen cái tánh “mọi rợ” là chưa bao giờ tự mình đến thăm bất cứ ai có chức,
có quyền lớn hơn tôi – trừ trường hợp duy nhất là cụ Tôn Đức Thắng mà tôi thỉnh
thoảng lên thăm, trước hết là vì anh Hai Thắng cứ vài ba tháng thì xuống thăm
hai vợ chồng tôi một lần”.
Song, chỉ với một cuộc gặp gỡ duy nhất sau hơn hai
mươi năm ấy, sử dụng phương pháp không ai ngờ tới – dùng lối nói ở trong tù,
xưng hô “tao, mày” với Lê Đức Thọ, Trần Văn Giàu đã buộc Lê Đức Thọ phải hứa ra
nghị quyết minh oan cho mình.
Ta hãy đọc lại cuộc nói chuyện với Lê Đức Thọ, vì nó
quá đặc sắc:
“Tao là Giàu, mày, ở khám 8, banh 1, là Khải, Phan
Đình Khải; hôm nay chúng ta nói chuyện thân mật như cách đây mấy mươi năm, khi
còn ở ngoài Côn Lôn…Chúng ta là những người quá 70 tuổi, xấp xỉ 80 rồi, sắp đi
theo cụ Hồ rồi. Mấy mươi năm nay, tao chịu những cái hàm oan mà mày, Khải, mày
biết hết, biết rõ trắng đen. Chúng ta đều muốn đi theo cụ Hồ một cách thanh
thản. Vậy lần này, Thọ về Hà Nội hãy có quyết định rõ, bằng văn bản của Ban Tổ
chức Trung ương về tất cả những điều người ta vu cáo cho Giàu, được không? Thọ
hứa, hứa trước mặt chị Năm Bi, anh Tào Tỵ, chú Ba Tô Ký”.
Năm xưa, bản lĩnh, trí tuệ của ông đã thể hiện rất cao
trong các cuộc tranh luận với Hoàng Quốc Việt, tuy nó dẫn ông tới hậu quả nhãn
tiền. Nay, cuộc gặp với Lê Đức Thọ, chúng ta gặp lại bản lĩnh ấy, trí tuệ ấy –
bản lĩnh, trí tuệ của con người làm nên lịch sử, nhân chứng lịch sử và là nhà
sử học lớn.
Đến đây, tôi chợt suy nghĩ về ba ông họ “Trần”: Trần
Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Trương Gia Triều) và Trần Văn Trà (Nguyễn Chấn). Sự
nổi tiếng của ba ông họ “Trần” không chỉ giới hạn trong phạm vi biên giới VN.
Người ta nhanh chóng nhận thấy, sau cuộc chiến mà họ hiến dâng gần trọn đời,
hình như họ lặng lẽ rút lui về viết sách, viết báo, nghiên cứu lịch sử, tránh
xa vòng danh lợi?
Đây là mấy câu thơ của Trần Văn Trà, từng là Tư lệnh
B2:
Ra đi hai bàn tay trắng
Trở về một dải giang sơn
Trăng xưa, hạc cũ, dòng sông lặng
Mây nước yên bình, thiên mã thăng
Thanh thản, như Thánh Gióng về trời – tất nhiên, không
phải về trời để mà “vui thú điền viên”. Tâm hồn của con người từng trải qua dâu
bể vẫn minh triết, trí tuệ. Nguyên nhân nào khiến một vị tướng có tài, công lao
là thế, bỗng dưng muốn “thiên mã thăng”?
Bất giác, tôi nhớ một đoạn trong hồi ký của Trần Văn
Trà. Trong khi đang nói về cuộc họp Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, vấn đề thi
hành Hiệp định Pari, ông bỗng xen vào một đoạn luận về đức và tài. Đức, “không
có gì giống với kiểu người trước mặt tươi cười vồn vã, sau lưng tìm cách đâm
nhau, “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”. Tài, không phải biểu hiện ở lời nói ba
hoa, phô trương, bề ngoài. Nói không đi đôi với làm thì nói không có giá trị
gì, lý luận không chứng minh bằng thực tế thì chỉ là lý luận suông…Mình không
gương mẫu nói không ai nghe, gia đình không hòa hợp gương mẫu thì nói gì xây
dựng xã hội trật tự, công minh”. Trong thời điểm đó, ở VN ai cũng rõ, “gia đình
không hòa hợp gương mẫu” là nhân vật nào! Cuốn sách nhanh chóng bị thu hồi – dĩ
nhiên, cuốn sách không chỉ có thế.
Vẫn theo Trần Văn Trà, Bộ Tổng tham mưu chủ trương kế
hoạch năm 1975 không đánh lớn, chỉ lo phá bình định ở đồng bằng sông Cửu Long.
Ở miền Đông, chủ lực không đánh lớn. B2 định đánh Đồng Xoài, Phước Long nhưng
Bộ không đồng ý mà chỉ cho đánh nhỏ, giải quyết một số cứ điểm nhỏ trên đường
14. Năm 1975 đánh nhỏ là để tích lũy lực lượng chờ thời cơ cho năm 1976. Lê
Duẩn nói trong buổi gặp Trần Văn Trà, có cả Phạm Hùng tham dự, “các anh tung
chủ lực ra đánh ngay từ đầu mùa khô, đánh Đồng Xoài và tiếp theo một loạt các
trận đánh lớn khác, như vậy là không phù hợp”. Song, nghe Trần Văn Trà và Phạm
Hùng giải thích, Lê Duẩn đồng ý cho đánh Đồng Xoài. Sau khi ba chi khu Bù Đăng,
Bù Đốp, Đồng Xoài của VNCH thất thủ, ông Trà lại đề nghị cho giải phóng luôn
tỉnh Phước Long theo như kế hoạch của B2. Ông Trà điện về Bộ tư lệnh B2 chỉ đạo
trận đánh Phước Long, bức điện nhờ Bộ Tổng tham mưu chuyển. Trong khi ông đang
nghiên cứu tình hình trên bản đồ thì Lê Ngọc Hiền – Phó Tổng tham mưu trưởng
đến. Lê Ngọc Hiền đưa ra bức điện, nói chưa cho điện đi, vì trong điện cho sử
dụng xe tăng và pháo lớn, điều mà cấp trên đã dặn không được phép. Ông Trà bực
mình mà rằng, là tư lệnh chiến trường, chẳng lẽ tôi không có quyền chỉ huy các
lực lượng của tôi sao? Không lẽ điện của tôi lại bị kiểm duyệt và bắt buộc phải
sửa đổi ngoài ý muốn của tôi? Yêu cầu đồng chí cho điện đi và đồng chí sẽ phải
chịu trách nhiệm nếu điện của tôi bị chẫm trễ, lỡ thời cơ (Trần Văn Trà – Những chặng đường lịch sử
của B2 thành đồng).
Trận Phước Long được đánh giá là “một đòn trinh sát
chiến lược”, thử phản ứng của Hoa Kỳ và VNCH. Lịch sử VN trình bày kế hoạch
giải phóng miền Nam
được vạch ra và thực hiện một cách hoàn hảo, gần như mọi việc đã dự kiến trước
hết cả! Song, qua hồi ký Trần Văn Trà, chúng ta thấy vấn đề không đơn giản như
thế và nó phức tạp hơn rất nhiều!
Sau năm 1975, cùng sống tại Sài Gòn, ba ông họ “Trần”
tiếp tục là những người nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực. Có thể nói, sử của Trần
Văn Giàu đọc hết sức hấp dẫn, nguồn trí tuệ vô cùng lớn. Các tác phẩm Triết học và tư tưởng, Biện chứng pháp,
Lịch sử cận đại VN, Chống xâm lăng…của Trần Văn Giàu có tính chất kinh
điển. Người ta tự hỏi, nếu ông theo đuổi sự nghiệp chính trị, liệu có một nhà
sử học tầm cỡ như thế không?
Còn Trần Bạch Đằng đã quá nổi tiếng trong tư cách một
lão thành cách mạng, một nhà nghiên cứu uyên bác. Sức suy nghĩ, sức sáng tạo,
sức viết của ông khó ai có thể sánh kịp. Có tới sáu thư ký mà không kịp ghi lại
các ý tưởng của ông. Chỉ cần đi đi lại lại một lúc là ông đọc xong một bài báo
cho thư ký ghi. Tết năm 1999, ông viết tới 25 bài báo – một kỷ lục. Ông là chủ
tịch đầu tiên của Uỷ ban giải thưởng Trần Văn Giàu.
Vậy nên, tôi khá ngạc nhiên nghe Xuân Thủy (từng là
Trưởng đoàn đàm phán tại Pari của VNDCCH) nhận xét: “cái anh lúc thì Trần Bạch
Ðằng, lúc thì Tư Ánh, lất khất như con lật đật, lúc nào cũng cao ngạo, tỏ ra
thông minh xuất chúng, nhưng thực chất rổng tuếch” (Đỗ
Trung Hiếu – Tiến trình thống nhất Phật giáo). Rõ
ràng, chúng ta khó mà đồng tình với đánh giá đó của Xuân Thủy. Trần Bạch Ðằng
từng là phó ban Dân vận Trung ương, phụ trách công tác tôn giáo vận. Vẫn theo
Đỗ Trung Hiếu, ban Tôn giáo Mông Cổ “tỏ ra khâm phục tài năng ông Trần Bạch
Ðằng”. Họ nghĩ ông Trần Bạch Ðằng là ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban tôn giáo
Chính phủ!
Không có người nào trong ba ông họ “Trần” giữ chức vụ
cao tương xứng với tài năng của họ. Tại sao? “Xin đừng nghĩ đồng chí rồi thì
không ai xấu nữa. Trong hàng ngũ ta chỉ có chỗ của yêu thương”. Tôi lại càng
nhớ các cuộc tranh luận của Trần Văn Giàu với Hoàng Quốc Việt – nhất là thời
điểm quyết định số phận ông Giàu. Xét đến cùng, người trí thức chân chính không
cần địa vị.
Đọc hồi ký Trần Văn Giàu, suy nghĩ về ba ông họ
“Trần”, tôi xin kết thúc bằng mấy câu thơ của Việt Phương:
Một phần tư thế kỷ qua đi và có lẽ bây giờ ta đã biết
Thế nào là thương yêu thế nào là chém giết
Ta đã thấy chỗ lõm chỗ lồi trên mặt trăng sao
Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét