Bí mật Trung Nam Hải: Gái nhảy của Mao Trạch Đông
- Hồ sơ - Tư liệu
- Đăng ngày Thứ bảy, 14 Tháng 4 2012 10:44
Năm 1960 Xuân Ngẫu Tề được cải tạo thành vũ trường, sân khấu, rạp chiếu phim và phòng ngủ đặc biệt của Mao Trạch Đông. Đêm đêm ca múa đều là những diễn viên trẻ đẹp, tuổi 18-20, được tuyển chọn từ các đoàn văn công.
Trung Nam Hải dưới thời Mao Trạch Đông là nơi cực lạc của các quần vương, đồng thời lại là chiến trường đấu đá quyết liệt tranh giành quyền lực giữa Mao Trạch Đông với các quần thần. Nó để lại biết bao bi khốc trong ký ức các nguyên lão.
Mao ở phòng Cúc Hương thư 18 năm, nơi này có 2 lối ra vào, một gian dành riêng cho những người phục vụ đặc biệt; một dành riêng cho Mao Trạch Đông và Giang Thanh. Bên cạnh có các phòng cơ yếu, vệ sĩ trưởng, chủ nhiệm cách mạng văn hóa – trước đó làm chủ nhiệm văn phòng trung ương – Dương Thượng Côn. Sau khi gia đình Dương dọn đi thì nơi đây để đồ tặng phẩm, bàn bóng bàn. Mao Trạch Đông ở đấy từ tháng 9/1949 đến trung thu năm 1967 thì dọn đến Du Vịnh Trì ở phía tây Trung Hải.
Hàng năm cứ vào tối ngày 26/12, ngày sinh nhật của Mao Trạch Đông thường có mời các đồng sự, bạn bè, nhưng ngày 26/12/1966, Mao Trạch Đông mời các thành viên của Ủy ban Cách mạng văn hoá, các bạn chiến đấu cũ nhưng số các bạn chiến đấu cũ chỉ có Chu Ân Lai tới, còn lại đều là các thành viên của Ủy ban Cách mạng văn hóa. Ngoài Mao Trạch Đông ra, dần dần có thêm gia đình của Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Lâm Bá Cừ, Bành Đức Hoài, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn, Hồ Kiều Mộc.
Năm 1960 Xuân Ngẫu Tề được cải tạo thành vũ trường, sân khấu, rạp chiếu phim và phòng ngủ đặc biệt của Mao Trạch Đông. Đêm đêm ca múa đều là những diễn viên trẻ đẹp, tuổi 18-20, được tuyển chọn từ các đoàn văn công. Chu Ân Lai rất ít khi đến đây nhảy, vì đã có sàn nhảy riêng ở Tử Quang bên bờ Tây Bắc của Trung Hải.
Hàng ngày, cứ 19h30, vợ chồng Chu Đức – Khang Khắc Thanh dắt nhau đến sàn nhảy thì đã có các nữ diễn viên trẻ đẹp đón tiếp, cầm tay Chu Đức đi kiểu “Quân ngũ đại bộ” cho đến khi các em áo thấm mồ hôi. Thực tế thì Chu Đức nhảy cũng được. “Đi đại bộ” là theo lời bác sĩ để rèn luyện thân thể. Khoảng 21giờ Chu Đức đưa vợ về nghỉ, Chu Đức có thói quen ngủ sớm, dậy sớm.
Sau khi Chu Đức rời sàn nhảy thì vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ – Vương Quang Mỹ mới đến nhảy. Lưu Thiếu Kỳ nhảy rất giỏi, nhất là điệu valse nhanh. Bạn nhảy của Lưu Thiếu Kỳ là những cô diễn viên thanh tú, nhẹ nhõm, linh hoạt như bướm bay. Các cô rất thích nhảy với Lưu Thiếu Kỳ, thường là các em chủ động mời trước. Còn bà vợ Lưu thì ngồi ở salon mỉm cười, mắt theo dõi phu quân của mình. Lưu Thiếu Kỳ rất bận, mỗi lần chỉ nhảy khoảng một tiếng đồng hồ.
Vương Quang Mỹ, nhảy cũng rất đẹp. Thường thì bản nhạc sau cùng thì hai vợ chồng Lưu mới nhảy với nhau. Khi đó các cô văn công đều chiêm ngưỡng, đồng thời mọi người biết, vợ chồng Lưu chuẩn bị rời sàn nhảy.
Còn các vị lãnh đạo xuất thân từ quân đội như Nguyên soái Trần Nghị, Phó thủ tướng Lý Tiên Niệm, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, Thượng tướng Tiêu Hoa, khi nhảy thì ưỡn ngực ra, ghì sát các cô diễn viên trẻ đẹp, mặt chạm cả vào phấn son của người ta, các em không dám nói, không dám cự tuyệt. Vì được tuyển chọn vào Trung Nam Hải để làm bạn nhảy với các vị lãnh đạo quốc gia, là “đi làm nhiệm vụ” cần phải “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị vinh quang đã được giao phó. Qua tuyển chọn lý lịch chính trị tốt mới được đi làm nhiệm vụ, ai mà chẳng thấy vinh hạnh.
Mao Trạch Đông rất ít khi cùng đi nhảy với phu nhân. Giang Thanh cũng có lần đến sàn nhảy ngồi xem, rất ít người dám nhảy với Giang Thanh. Giang Thanh xuất thân từ minh tinh màn bạc, đương nhiên nhảy rất giỏi nhưng tính khí lạ thường. Sau khi Mao Trạch Đông đến sàn nhảy liền ngồi vào chỗ salon giành riêng uống trà nói chuyện, có khi hẹn người đến đây thảo luận, hội báo công tác.
Thường Mao Trạch Đông đến sàn nhảy và ở đó từ hơn 22h đến 1h sáng. Các nữ diễn viên trẻ đẹp được cùng nhảy với vị lãnh đạo vĩ đại đều lấy làm vinh dự. Có khi một bản nhạc, Mao Trạch Đông thay đổi 3 cô để nhảy. Ngoài vũ trường các nhân viên văn công khác tự nhiên phải biết phận mình nghiêm chỉnh giữ “kỷ luật cách mạng”.
Mao ở phòng Cúc Hương thư 18 năm, nơi này có 2 lối ra vào, một gian dành riêng cho những người phục vụ đặc biệt; một dành riêng cho Mao Trạch Đông và Giang Thanh. Bên cạnh có các phòng cơ yếu, vệ sĩ trưởng, chủ nhiệm cách mạng văn hóa – trước đó làm chủ nhiệm văn phòng trung ương – Dương Thượng Côn. Sau khi gia đình Dương dọn đi thì nơi đây để đồ tặng phẩm, bàn bóng bàn. Mao Trạch Đông ở đấy từ tháng 9/1949 đến trung thu năm 1967 thì dọn đến Du Vịnh Trì ở phía tây Trung Hải.
Hàng năm cứ vào tối ngày 26/12, ngày sinh nhật của Mao Trạch Đông thường có mời các đồng sự, bạn bè, nhưng ngày 26/12/1966, Mao Trạch Đông mời các thành viên của Ủy ban Cách mạng văn hoá, các bạn chiến đấu cũ nhưng số các bạn chiến đấu cũ chỉ có Chu Ân Lai tới, còn lại đều là các thành viên của Ủy ban Cách mạng văn hóa. Ngoài Mao Trạch Đông ra, dần dần có thêm gia đình của Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Lâm Bá Cừ, Bành Đức Hoài, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn, Hồ Kiều Mộc.
Năm 1960 Xuân Ngẫu Tề được cải tạo thành vũ trường, sân khấu, rạp chiếu phim và phòng ngủ đặc biệt của Mao Trạch Đông. Đêm đêm ca múa đều là những diễn viên trẻ đẹp, tuổi 18-20, được tuyển chọn từ các đoàn văn công. Chu Ân Lai rất ít khi đến đây nhảy, vì đã có sàn nhảy riêng ở Tử Quang bên bờ Tây Bắc của Trung Hải.
Hàng ngày, cứ 19h30, vợ chồng Chu Đức – Khang Khắc Thanh dắt nhau đến sàn nhảy thì đã có các nữ diễn viên trẻ đẹp đón tiếp, cầm tay Chu Đức đi kiểu “Quân ngũ đại bộ” cho đến khi các em áo thấm mồ hôi. Thực tế thì Chu Đức nhảy cũng được. “Đi đại bộ” là theo lời bác sĩ để rèn luyện thân thể. Khoảng 21giờ Chu Đức đưa vợ về nghỉ, Chu Đức có thói quen ngủ sớm, dậy sớm.
Sau khi Chu Đức rời sàn nhảy thì vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ – Vương Quang Mỹ mới đến nhảy. Lưu Thiếu Kỳ nhảy rất giỏi, nhất là điệu valse nhanh. Bạn nhảy của Lưu Thiếu Kỳ là những cô diễn viên thanh tú, nhẹ nhõm, linh hoạt như bướm bay. Các cô rất thích nhảy với Lưu Thiếu Kỳ, thường là các em chủ động mời trước. Còn bà vợ Lưu thì ngồi ở salon mỉm cười, mắt theo dõi phu quân của mình. Lưu Thiếu Kỳ rất bận, mỗi lần chỉ nhảy khoảng một tiếng đồng hồ.
Vương Quang Mỹ, nhảy cũng rất đẹp. Thường thì bản nhạc sau cùng thì hai vợ chồng Lưu mới nhảy với nhau. Khi đó các cô văn công đều chiêm ngưỡng, đồng thời mọi người biết, vợ chồng Lưu chuẩn bị rời sàn nhảy.
Còn các vị lãnh đạo xuất thân từ quân đội như Nguyên soái Trần Nghị, Phó thủ tướng Lý Tiên Niệm, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, Thượng tướng Tiêu Hoa, khi nhảy thì ưỡn ngực ra, ghì sát các cô diễn viên trẻ đẹp, mặt chạm cả vào phấn son của người ta, các em không dám nói, không dám cự tuyệt. Vì được tuyển chọn vào Trung Nam Hải để làm bạn nhảy với các vị lãnh đạo quốc gia, là “đi làm nhiệm vụ” cần phải “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị vinh quang đã được giao phó. Qua tuyển chọn lý lịch chính trị tốt mới được đi làm nhiệm vụ, ai mà chẳng thấy vinh hạnh.
Mao Trạch Đông rất ít khi cùng đi nhảy với phu nhân. Giang Thanh cũng có lần đến sàn nhảy ngồi xem, rất ít người dám nhảy với Giang Thanh. Giang Thanh xuất thân từ minh tinh màn bạc, đương nhiên nhảy rất giỏi nhưng tính khí lạ thường. Sau khi Mao Trạch Đông đến sàn nhảy liền ngồi vào chỗ salon giành riêng uống trà nói chuyện, có khi hẹn người đến đây thảo luận, hội báo công tác.
Thường Mao Trạch Đông đến sàn nhảy và ở đó từ hơn 22h đến 1h sáng. Các nữ diễn viên trẻ đẹp được cùng nhảy với vị lãnh đạo vĩ đại đều lấy làm vinh dự. Có khi một bản nhạc, Mao Trạch Đông thay đổi 3 cô để nhảy. Ngoài vũ trường các nhân viên văn công khác tự nhiên phải biết phận mình nghiêm chỉnh giữ “kỷ luật cách mạng”.
Theo NĂNG LƯỢNG MỚI
Mao Trạch Đông được đánh giá là người có công trong việc thống nhất đất nước Trung Quốc – được tôn vinh là người Thầy vĩ đại, Lãnh tụ vĩ đại, Thống soái vĩ đại, Người cầm lái vĩ đại, nhưng về cuối đời, Mao Chủ tịch đã phạm phải một số sai lầm, trong đó có việc tạo ra “Cách mạng văn hóa” với sản phẩm đặc biệt “bè lũ 4 tên”.
Người đời truyền tai nhau khá nhiều câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông như: Chính trị là chiến tranh không có đổ máu, trong khi chiến tranh là chính trị có đổ máu; Súng đẻ ra chính quyền: Lấy nông thôn bao vây thành thị…
Sau khi Mao Chủ tịch qua đời (9/9/1976), có khá nhiều cuốn sách viết về ông, trong đó có cuốn “Đời sống riêng của Mao Trạch Đông” do Lý Chí Tuy, bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông viết và cuốn “Sự chân thật của lịch sử” do Lâm Khắc (từng là thư ký kiêm giáo viên dạy tiếng Anh cho Mao Chủ tịch) cùng vợ chồng Từ Đào – Ngô Húc Quân liên danh viết. Việc đánh giá “công và tội” của Chủ tịch Mao đã được tiến hành trước khi 2 cuốn sách kể trên ra mắt độc giả.
Từ sự khác nhau của 2 cuốn sách
Vì từng sống gần 22 năm bên cạnh Chủ tịch Mao nên dư luận rất quan tâm, bàn tán xung quanh cuốn “Đời sống riêng của Mao Trạch Đông” (The Private Life of Chairman Mao) do Lý Chí Tuy viết. Được biết, Lý Chí Tuy bắt đầu viết cuốn “Đời sống riêng của Mao Trạch Đông” từ tháng 3/1989 tới tháng 11/1989 mới xong bản thảo.
Sau khi viết xong, Lý Chí Tuy mất 3 năm để dịch sang tiếng Anh, sau đó dịch sang tiếng Trung Quốc. Theo Anne F.Thurston, trợ lý cho ban biên tập, người đã bỏ ra 2 năm giúp Lý Chí Tuy biên dịch bản thảo của mình sang tiếng Anh cho biết, cuốn “Đời sống riêng của Mao Trạch Đông” đã tái bản 3 lần, trong đó có gần 30.000 cuốn được nhập lậu vào Trung Quốc qua ngả Hongkong, Đài Loan, Macau và hải ngoại.
Sau khi Lý Chí Tuy chết (chiều 13/2/1995, thọ 75 tuổi tại Mỹ), người ta đã in tái bản trái phép cuốn “Đời sống riêng của Mao Trạch Đông” và bán tại chợ đen với giá 500-700NDT tại Quảng Châu, Thâm Quyến, 800NDT tại Bắc Kinh, Thượng Hải… Từ khi cuốn “Đời sống riêng của Mao Trạch Đông” ra đời đã có những ảnh hưởng nhất định tới đời sống chính trị, xã hội của không ít người Trung Quốc.
Bộ Công an, Ban Văn hóa tư tưởng Trung ương, Văn phòng Thông tin Quốc vụ viện, Văn phòng Quốc vụ viện cùng nhiều quan chức cao cấp của Chính phủ Trung Quốc tại thời điểm đó như Tổng bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân, Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch đã lên tiếng về cuốn sách này.
Ông Uông Đông Hưng, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương Đảng, vệ sĩ riêng của Chủ tịch Mao đã nêu 4 ý kiến về cuốn sách này. Thứ nhất, tháng 10/1979 và tháng 4/1983, đã 2 lần nêu ý kiến và kết luận về sự không tin tưởng về chính trị và phẩm chất đạo đức của Lý Chí Tuy. Thứ hai, Trung ương đã có chế độ hạn chế việc cho phép nhân viên ra nước ngoài nhưng vẫn còn kẽ hở.
Thứ ba, cuốn “Đời sống riêng của Mao Trạch Đông” là một thủ đoạn tuyên truyền phản động của Mỹ và Đài Loan đối với Trung Quốc. Thứ tư, cần có sự chỉnh đốn đối với những sách báo, tạp chí nói về cái gọi là “bí mật của Đảng, của Quốc gia”, đồng thời cần có thái độ đúng đắn, nghiêm túc đối với những tác phẩm bôi nhọ, phỉ báng, tiết lộ bí mật quốc gia của bất cứ ai.
Khi đó, để rộng đường dư luận, Lâm Khắc (từng là thư ký kiêm giáo viên dạy tiếng Anh cho Mao Chủ tịch) đã cùng với vợ chồng Từ Đào – Ngô Húc Quân (Từ Đào là bác sĩ khám bệnh cho Chủ tịch Mao từ năm 1953 tới 1957, còn Ngô Húc Quân là y tá trưởng của Mao Chủ tịch từ năm 1953 đến 1974) viết cuốn “Sự chân thật của lịch sử” để bác bỏ những điều “vô lý, dựng chuyện” của Lý Chí Tuy. Trong cuốn “Sự chân thật của lịch sử”, 3 tác giả Lâm Khắc, Từ Đào và Ngô Húc Quân đã đưa ra nhiều nhân chứng, vật chứng để chứng minh cho những điều họ viết.
Ví như ngày 3/6/1957 Lý Chí Tuy mới được làm bác sĩ cho Chủ tịch Mao (điều này được trích dẫn từ phần lý lịch cá nhân, hồ sơ đảng viên, hồ sơ cán bộ do chính Lý Chí Tuy viết), nhưng ông lại viết làm bác sĩ cho Mao Chủ tịch từ năm 1954, hoặc người giúp Mao Chủ tịch học tiếng Anh là Lâm Khắc chứ không phải Lý Chí Tuy… Những thông tin xung quanh 2 cuốn sách này từng là chủ đề tranh cãi của không ít giới, cũng như dư luận bởi nhiều điều được đề cập trong đó cho tới nay vẫn là bí mật của lịch sử.
(NLM)
Xem thêm: Tiểu sử Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Ngày 27/6/1980, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho ban soạn thảo “Quyết nghị”: Trọng tâm tư tưởng của Mao Chủ tịch là vấn đề gì? Mặt nào là chuẩn xác, sai lầm cần phê bình, nhưng phải thỏa đáng….
Cách đây gần 34 năm (tháng 11/1979), dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình và Bộ Chính trị, Ban Bí thư bắt tay soạn thảo: “Những quyết nghị có liên quan tới một số vấn đề lịch sử của Đảng Cộng sản Trung quốc từ khi thành lập nước tới nay” (gọi tắt là “Quyết nghị”). Tổ soạn thảo do Hồ Kiều Mộc phụ trách. Đặng Tiểu Bình rất coi trọng lần soạn thảo này – đích thân chỉ đạo, góp ý kiến tới 16, 17 lần.
Tháng 3/1980, tổ soạn thảo văn kiện nêu ra những ý kiến sơ bộ. Ngày 19/3/1980, Đặng Tiểu Bình nêu 3 ý kiến mang tính chỉ đạo đối với những nguyên tắc, tư tưởng, yêu cầu cũng như cách viết. Thứ nhất, xác lập vai trò lịch sử của đồng chí Mao Trạch Đông, kiên trì và phát triển tư tưởng của Mao Trạch Đông. Đây là điều quan trọng nhất. Thứ hai, phải tiến hành phân tích một cách thực sự cầu thị đối với những sự kiện trọng đại của đất nước trong suốt 30 năm kể từ khi thành lập nước đến nay, vấn đề nào là chính xác, là sai lầm phải được làm rõ, kể cả việc đánh giá một cách nghiêm túc, cẩn thận những sai, đúng của một số đồng chí chịu trách nhiệm khi đó. Thứ ba, thông qua những quyết nghị này để làm tổng kết mang tính căn bản. Việc tổng kết không cần quá chi tiết, nhưng cũng không thể qua loa đại khái. Tổng kết những gì đã qua sẽ có tác dụng đoàn kết mọi người đồng tâm nhất trí tiến lên phía trước.
Ngày 1/4/1980, Đặng Tiểu Bình lại góp ý chỉnh lý lại bản dự thảo. Ông còn nêu những ý tưởng của mình đối với lịch sử 17 năm 1949-1966 (từ khi thành lập nước tới “Cách mạng văn hóa”). Ngày 27/6/1980, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho ban soạn thảo “Quyết nghị”: Trọng tâm tư tưởng của Mao Chủ tịch là vấn đề gì? Mặt nào là chuẩn xác, sai lầm cần phê bình, nhưng phải thỏa đáng. Nếu chỉ nói sai lầm cá nhân của Mao Trạch Đông sẽ không giải quyết được vấn đề, quan trọng nhất vẫn là vấn đề chế độ.
Từ tháng 10/1980, hơn 4.000 cán bộ lãnh đạo cao cấp đã tiến hành thảo luận trong 20 ngày, có hơn 50 đại biểu phát biểu ý kiến góp ý cho bản dự thảo “Quyết nghị”. Tại cuộc thảo luận, mọi người đã mạnh dạn nói lên tiếng nói của mình, của đơn vị mình… trong đó nhiều ý kiến quý giá như: Phải bổ sung thêm những vấn đề lịch sử sau khi đập tan “bè lũ 4 tên”. Nên viết ngắn lại, tập trung vào những vấn đề trọng tâm, không lan man. Nhưng cũng có ý kiến (chưa đúng đắn) cho rằng: Không nên viết vào dự thảo những vấn đề tư tưởng của Mao Trạch Đông. Những sai lầm trong “Đại nhảy vọt”, “Cách mạng văn hóa” còn nghiêm trọng hơn cả những việc cần giải quyết trong cuộc đấu tranh giai cấp.
Nói cho cùng thì những sai lầm trong “Cách mạng Văn hóa” bắt nguồn từ bản chất chưa tốt của Mao Trạch Đông. Thời kỳ trước, Mao Trạch Đông là người theo chủ nghĩa Mác, là người của Chủ nghĩa cộng sản, nhưng về sau Mao Chủ tịch không phải là người theo chủ nghĩa Mác, không phải là người của Chủ nghĩa cộng sản. Tất cả những sai lầm trước và trong thời kỳ “Cách mạng văn hóa” đều do một mình Mao Trạch Đông đảm trách.
Chính vì có nhiều ý kiến khác nhau nên ngày 25/10/1980, Đặng Tiểu Bình đã có buổi gặp gỡ với các đồng chí phụ trách Trung ương và nêu một số kiến nghị: Nếu không nói những vấn đề tư tưởng của Mao Trạch Đông thì sẽ không chính xác, thỏa đáng trong việc luận bàn giữa “công và tội” của Mao Chủ tịch, thậm chí nhiều cán bộ, nông dân, trí thức… sẽ không thỏa mãn. Ngọn cờ mà Mao Chủ tịch đã dựng lên không thể bị “đốn ngã”. Ngọn cờ này bị đổ tức là trên thực tế phủ định tất cả quá trình lịch sử mà Đảng ta đã xây đắp nên. Do vậy, trong bản dự thảo phải có phần này. Điều này không chỉ đơn thuần là vấn đề lý luận, mà là vấn đề chính trị rất lớn, cả trong nước cũng như trên trường quốc tế. Nếu không viết vấn đề này hoặc viết không tốt thì chi bằng đừng viết. Chúng ta không viết hoặc không kiên trì tư tưởng của Mao Trạch Đông là chúng ta đã phạm một sai lầm lớn mang tính lịch sử. Chúng ta phải phê bình những sai lầm của Mao Trạch Đông, nhưng nhất định phải thực sự cầu thị, phải tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng trên mọi góc cạnh của vấn đề, không thể quy mọi tội lỗi cho một người. Mao Trạch Đông vẫn là lãnh tụ của Đảng ta, nếu chúng ta viết quá đi những gì Mao Chủ tịch đã phạm phải tức là chúng ta đã phỉ báng đồng chí mình, bôi nhọ Đảng mình, bôi nhọ quốc gia mình và cũng quay lưng lại chính sự thật của lịch sử.
Tháng 11/1980, ông Hoàng Khắc Thành phát biểu trong buổi viết dự thảo “Quyết nghị”: Là một cán bộ lão thành cách mạng, đã từng chịu nhiều oan trái suốt từ năm 1959 cho tới khi được minh oan, từng bị Mao Chủ tịch phê bình, phán xử một cách oan ức tại hội nghị “Lư Sơn”… nhưng ông vẫn khẳng định những công lao to lớn trong lịch sử của Mao Trạch Đông. Ông nói: Nếu đổ tất cả trách nhiệm cho Mao Trạch Đông thì chúng ta đã làm một việc trái với sự thật của lịch sử. Tôi rất hiểu tâm tư của những đồng chí từng bị oan trái vì tôi cũng là một người trong số họ, nhưng chúng ta không nên phát biểu một cách cực đoan vô trách nhiệm. Chúng ta không thể lồng tình cảm cá nhân vào chuyện này được mà phải có cái nhìn thực sự cầu thị.
Tháng 3/1981, Đặng Tiểu Bình đề nghị thống nhất lại những phần đã soạn thảo: Mọi người đều nhất trí với những thành tích 7 năm (1949-1956). Từ năm 1956 đến 1966 cần khẳng định: Nói chung là tốt, về cơ bản đất nước đã phát triển một cách bình thường, giữa thời kỳ có một số chỗ “khúc khuỷu, sai lầm” nhưng nhìn chung thành tích là chủ yếu. Đối với thời kỳ “Cách mạng văn hóa” cần viết một cách khái quát, những hậu quả của thời kỳ này còn rất nặng nề, thậm chí còn rơi rớt tới tận hôm nay.
Ông Hồ Diệu Bang bổ sung: “Sau khi gửi bản thảo tới các đồng chí có trách nhiệm, chúng ta cần lắng nghe ý kiến đóng góp của các đồng chí lão thành cách mạng, của các chính trị gia để hoàn chỉnh bản dự thảo này”. Ý kiến này của ông Hồ Diệu Bang được Đặng Tiểu Bình hoan nghênh, tán thành. Ngày 24/3/1981, ông Trần Vân góp hai ý kiến đối với bản dự thảo và ý kiến này đã được Đặng Tiểu Bình đặc biệt coi trọng.
Ngày 26/3/1981, Đặng Tiểu Bình gửi những góp ý kể trên tới tổ soạn thảo: Cần có một lời dẫn, nói về quá trình lịch sử của Đảng trước giải phóng, viết về quá trình phát triển trong 60 năm qua của Đảng. Có viết như vậy thì mới thấy hết được những công lao, thành tích của Mao Trạch Đông, xác lập được vai trò lịch sử của Mao Chủ tịch, mới có căn cứ để kiên trì và phát triển tử tưởng Mao Trạch Đông. Kiến nghị với Trung ương cần tổ chức, coi trọng việc học tập những tác phẩm mang tính triết học của Mao Trạch Đông.
Cuối tháng 3/1981, ông Trần Vân còn nêu 4 vấn đề cần chú ý trong quá trình soạn dự thảo: Cần viết một cách chính xác những sai lầm của Đảng trong 32 năm qua, cần phải trung thực với thực tế. Kiến nghị đưa thêm một số tình hình của Trung Quốc 28 năm trước khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đồng thời phải khẳng định những công lao mang tính lịch sử của Mao Trạch Đông, cần đưa những tư liệu nói về sự giúp đỡ của quốc tế đối với Trung Quốc trong thời kỳ này…
Ngày 7/4/1981, Đặng Tiểu Bình lại đưa ra cách nhìn nhận về một số vấn đề trong thời kỳ “Cách mạng văn hóa”: Cần xác định tính hợp pháp của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9, của hội nghị toàn thể Trung ương 12 khóa VIII. Trong thời kỳ “Cách mạng văn hóa”, Đảng của chúng ta vẫn tồn tại. Trong thời kỳ “Cách mạng văn hóa”, chúng ta đã giành được những thành công lớn trong công tác đối ngoại. Tháng 5/1981, Bộ Chính trị triệu tập một cuộc thảo luận với sự tham gia của hơn 40 lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, thảo luận trong 12 ngày để bàn một số vấn đề xoay quanh “Quyết nghị”.
Ngày 19/5/1991, Đặng Tiểu Bình lại phát biểu trong cuộc họp mở rộng của Bộ Chính trị: “Chúng ta cần nhanh chóng hoàn tất bản dự thảo, nếu để lâu sẽ không có lợi. Để có thể sớm kết thúc chỉ có cách triệu tập hội nghị mở rộng của Bộ Chính trị, hơn 70 cán bộ lãnh đạo cần tập trung thời gian, sức lực, mỗi người cố gắng một chút để có thể đưa bản thảo này ra trình tại hội nghị toàn thể Trung ương 6 và sẽ cho đăng trong dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc”.
Bộ Chính trị đã căn cứ theo yêu cầu kể trên của Đặng Tiểu Bình tiến hành triệu tập hơn 70 đồng chí lãnh đạo các ban, ngành, ngoài ra còn trưng cầu ý kiến của 130 đại biểu của các đảng phái khác nhằm hoàn tất bản dự thảo. Tháng 6/1981, Hội nghị toàn thể Trung ương 6 khóa XI (hội nghị trù bị) đã tiến hành thảo luận một cách sôi nổi, nghiêm túc bản “Quyết nghị”.
Đặng Tiểu Bình phát biểu ý kiến: “Chúng ta đã hoàn thành bản “Quyết nghị” một cách hoàn hảo, nhất là phần phân tích những vấn đề xoay quanh việc đánh giá đồng chí Mao Trạch Đông, nhưng có chỗ nói còn hơi quá lời, nên sửa chữa đôi chút. Những phần thuộc về trách nhiệm, đương nhiên trách nhiệm chính vẫn là của Mao Trạch Đông, nhưng cũng không thể bỏ qua trách nhiệm của tập thể ban lãnh đạo”, “Về những vấn đề nảy sinh trong 2 năm sau khi đập tan “bè lũ 4 tên” chúng ta cần nhắc tới những sai lầm của Hoa Quốc Phong, điều này có lợi cho toàn Đảng, cho lợi ích của toàn dân và cho cả bản thân đồng chí Hoa Quốc Phong”.
Sau hơn 1 năm chuẩn bị với sự đóng góp của hàng nghìn ý kiến khác nhau, của 4, 5 lần hội thảo mang tính quy mô rộng lớn như họp Bộ Chính trị, trưng cầu ý kiến của các văn sĩ… cùng những ý kiến trái ngược nhau và cả những thăng trầm lớn nhỏ, bản dự thảo “Quyết nghị” cuối cùng đã ra mắt quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, sau khi “Quyết nghị” được công bố vẫn có nhiều dư luận khác nhau xung quanh con người đặc biệt này bởi tính nhạy cảm, phức tạp của vấn đề.
(NLM)
Xem thêm: Nguyễn Thiện Nhân, Vũ khí Việt Nam 2013, Chiến tranh mạng, Thông tin An ninh Quốc phòng, Biểu tình chống Trung Quốc
Bí mật Trung Nam Hải (Kỳ 3)
06:56 | 03/06/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét