Slide


Mời Ba về ăn Tết với chúng con
  • kenny

  • kenny

Trang

Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

GÓP Ý VỚI ANH NGUYỄN TƯỜNG BÁCH QUA BÀI “VŨ TRỤ KHÔNG CẦN AI SÁNG THẾ” của giáo sư Stephen W.Hawking

GÓP Ý VỚI ANH NGUYỄN TƯỜNG BÁCH QUA BÀI
“VŨ TRỤ KHÔNG CẦN AI SÁNG THẾ” của giáo sư Stephen W.Hawking
 
                                             (Phần tài liệu của anh Bách sơn màu vàng. Phần góp ý chữ in đậm).
 
Trong năm 2010 có hai biến cố đặc biệt thu hút sự chú ý của giới khoa học. Tháng 9.2010, nhà vật lý học lừng danh Stephen Hawking luận giải một cách chung cuộc rằng vũ trụ xuất phát từ chân không, vũ trụ phát sinh không cần đến một đấng sáng tạo. Tháng 12.2010, Cơ quan Quản trị Hàng không và Không gian NASA thông báo phát hiện của bà Felisa Wolfe-Simon, trong đó người ta tìm thấy một hình thái mới của sự sống, không giống với cấu trúc mà con người biết đến.Hai biến cố khoa học này làm những ai quan tâm không thể không liên tưởng đến những luận đề cơ bản của Phật giáo trong vũ trụ và thế giới hiện tượng (*).
Trong tác phẩm mới xuất bản The Grand Design, nhà vật lý 68 tuổi Stephen Hawking viết rằng, các lý thuyết vật lý mới nhất cho thấy vũ trụ của chúng ta đã tự hình thành (*). Trước khi vũ trụ thành hình thì chỉ là một sự trống rỗng, nhưng tính sáng tạo nội tại trong cái “Không” đó đã hình thành vũ trụ. Hawking thấy “không cần thiết” phải có một Thượng đế, một đấng sáng tạo để tạo dựng nên vũ trụ (*)Từ một tình trạng không có gì, phi thời gian không gian, không cần một nguyên nhân ngoại lai, có một sự bùng nổ, phát ra năng lượng và vật chất (*). Đó là hiệu ứng được mệnh danh là “hiệu ứng lượng tử” (*). Xuất phát từ sự tăng giảm không đều của năng lượng. Nói tóm gọn, vũ trụ là kết quả của một sự sáng tạo mà không có người sáng tạo.
GÓP Ý 1:
Quan điểm vũ trụ (của chúng ta) do một Thượng Đế (Ngã Thần) sáng tạo ra hay vũ trụ xuất phát từ chân không mà Hawking đưa ra trong “The Grand Design” thực ra đâu có khác gì nhau!? Ngã Thần do con người suy tôn, vẽ lên dưới hình ảnh và bóng dáng của chính con người …còn trong “The Grand Design” Hawking (cả những ai đồng ý quan điểm Hawking) vẽ lên do sự lý giải, suy luận qua tính thấy, biết qua trung gian các căn: mắt, tai …đến nay khoa học tiến bộ được nối dài thêm bằng kính thiên văn và vô tuyến điện tử mà dụng cụ kiểm chứng đắc lực nhất là mắt (một trong 5 căn) trong khi mắt hệ lụy nơi vận tốc tương tác C # 300.000 km/sec cho đến nay chúng ta “lầm” (*) xem (gọi) là
vận tốc ánh sáng và là vận tốc tuyệt đối qua lý thuyết tương đối mà Einstein đưa ra năm 1905.]
***
Với nhận thức này, Hawking đã từ chối có một đấng sáng tạo (*) vũ trụ. Nhận thức này không dễ chấp nhận tại phương Tây, kể cả trong giới khoa học vật lý. Lý do không phải là các nhà vật lý kia tin mù quáng nơi một Thượng đế toàn năng mà họ có những lý lẽ hết sức vững chắc khác (*). Đó là thế giới của chúng ta quá kỳ diệu (*), rõ rệt là vũ trụ được cấu tạodường như có chủ đích là sẽ có ý thức tồn tại trong đó (*). Người ta đã xác định một loạt các thông số (*) trong Thái dương hệ và thấy rằng chỉ cần một thông số lệch đi một chút(*) là đã không thể có đời sống loài người trên trái đất. Mặt trời chỉ cần lớn hơn một chút (*), thành phần của các hành tinh chỉ khác đi một chút, không có sự hiện diện của mặt trăng… là không thể có loài người. Xác suất để ý thức xuất hiện là quá nhỏ, gần như bằng không. Thế mà vẫn có ý thức cao cấp xuất hiện để chiêm nghiệm ngược lại về vũ trụ. Mộtkhi đã có một vũ trụ vận hành hoàn hảo như thế, khi có một sự sáng tạo tuyệt diệu thì cần phải có người sáng tạo có ý thức, hay phải có “Thượng đế”. Thế nhưng cũng chính các nhà khoa học theo quan niệm sáng tạo cũng phân vân, nếu có Thượng đế toàn năng thì làm sao lý giải được những cảnh tàn bạo, bất công trong thế giới của con người. Đó là một nan đề của môn bản thể học trong vật lý hiện đại. Nhận thức củaHawking cho rằng vũ trụ xuất phát từ chân không bằng một sự vận động tự thể. Có sự sáng tạo nhưng không có người sáng tạo. Nhận thức này phần nào lý giải tính chất kỳ diệu của vũ trụ nhưng không dễ hiểu. Nó khó hiểu ở chỗ là nhận thức này từ chối một tự ngã làm chủ cho một hành động. Có hành động nhưng không có người hành động. Nhận thức này tuy xa lạ với phương Tây nhưng nó là một cách phát biểu của thuyết vô ngã trong đạo Phật.
GÓP Ý 2: Sự từ chối “ngã Thần” để thay bằng “bản ngã” có khác gì đâu!? Cho nên, cả hai quan điểm trên “Thượng Đế” sáng tạo hay từ “hiệu ứng lượng tử” thì cũng chỉ là thay mớ nhận thức chủ quan này bằng một nhận thức chủ quan khác … không có gì khác nhau cả. Nhận thức “vũ trụ thực tại” của hai quan điểm trên không vượt khỏi tính thấy bằng mắt, hệ lụy bởi trung gian tương tác mà chúng ta lại gọi là ánh sáng! Cũng từ đó mà vũ trụ bị đóng khung trong một khuôn mẫu “tròn” và con người luôn luôn đứng ở trung tâm.
Hai quan điểm trên đều lỗi thời rồi vì đối với nhận thức nhị nguyên – có chủ thể nhận thức và đối tượng bị nhận thức – thực tại hay chân tướng “sự vật” nơi vĩ mô nếu muốn biết “vũ trụ” từ đâu ra … chủ thể quan sát phải đứng bên ngoài “nó” chứ đứng trong lòng “nó” (vũ trụ) mà nhìn ra qua đôi mắt hệ lụy trung gian tương tác (tần số, bước sóng …) mà chúng ta gọi là ánh sáng thì chỉ là phỏng đoán chứ làm sao đúng thật tại được! Mặt khác, thật tại còn có nhiều “mức độ” tùy thuộc vảo “mức độ” thực tại khách quan.
Có hai hình thái nhận thức theo nhị nguyên đều là chủ quan:
1.- Chủ thể nhận thức đứng trong nhìn ra, thế đứng trong lòng vũ trụ mà nhìn ra – qua trung gian tương tác 300.000 km/sec – chỉ có thể thấy, biết bên trong mà lại quả quyết phán rằng: Vũ trụ từ đâu ra? Hình dáng như thế nào? Và chừng độ bao lớn? Thật là cao ngạo và không tưởng!
2.- Chủ thể đứng ngoài nhìn vào – chỉ có thể thấy biết bên ngoài chứ làm sao hiểu và biết bên trong còn có gì? – thế mà cứ cố gắng tìm “hạt” nào là “hạt cơ bản” (hạt nhỏ nhất) đã cấu thành vũ trụ của chúng ta! Thế thì làm sao mà tìm được!? Giả như có tìm được một hạt cho là nhỏ nhất đi … thì tự “nó” đã không phải là nhỏ nhất rồi! Thử hỏi, để hai hạt nhỏ kế nhau, điểm chạm của chúng phải nhỏ hơn “tự thân” chúng rồi!
Chúng ta đang ở những thập niên đầu của thiên kỷ 3, nền vật lý học của thế kỷ 20 còn gọi là Tân vật lý hay vật lý học hiện đại gồm 4 lý thuyết: Lý thuyết (giả thuyết) lượng tử – Lý thuyết tương đối hẹp – Lý thuyết tương đối rộng – Cơ học lượng tử. Bốn lý thuyết trên có thể gom thành hai lý thuyết cột trụ:
Ngành tương đối là ngành của vật lý vĩ mô, chi phối thế giới cực đại với:
a.- Tương đối hẹp qua công thức E = m.C2. Công thức cho đến nay vẫn còn được các nhà vật lý xem là “khuôn vàng, thước ngọc” … có khả năng làm nghiêng đất, lệch trời.
b. Tương đối rộng (xin không nói nhiều) thì vô lực trong thế giới vi mô. Tương đối rộng dẫn các nhà khoa học đến câu hỏi đầu tiên và khởi thủy là gì?
Câu hỏi liên quan đến cả một mớ bộ môn học hỏi như: Toán học, vật lý học, hóa học và nhất là cả triết học về vấn đề bản thể, nhận thức về thực tại và số kiếp của Trời, Đất. Công trình đòi hỏi phải thu nhặt tài liệu, phân tích,đúc kết và dẫn giải mọi khám phá về thời gian, không gian, vũ trụ cực vi, cực đại về đủ mọi loại chương trình, tiêu tốn hàng tỷ Mỹ kim … thể hiện bằng sự cộng tác hoặc dưới quyền điều động của hầu hết các bộ óc thông minh nhất của cả hai mặt hàng rào: Duy tâm và duy vật. Big Bang ra đời …!
[Xin xem tài liệu đính kèm: TIẾNG NỔ NGUYÊN THỦY BIG BANG KHÔNG BAO GIỜI CÓ … .]
Ngành cơ học lượng tử là ngành của vật lý vi mô, chi phối thế giới cực vi … thế giới nguyên tử và tiềm/hạ nguyên tử. Cơ học lượng tử là khí cụ để khảo sát thế giới vi mô. Tiếc rằng, hiện cơ học lượng tử đang bên bờ vực của sự bế tắc! Chính giáo sư Paul A.M.Dirac năm 1979 đã bâng khuâng thốt lên lời than thở như sau: “Đã thật sự rõ ràng rằng cơ học lượng tử hiện chưa ở trong dạng thức cuối cùng của nó!GHI NHẬN QUAN TRỌNG:
Chỉ có một lối thoát mở cửa cho vật lý học thế kỷ 20 (cơ học lượng tử) trước hết phải giải quyết, hiểu được đúng: Bản chất của ánh sáng – Thực tại về thời gian, không gian – Thực tại về chiều (dimension) – Thực tại sự vật …v.v… . Muốn thế, chỉ có một cách độc nhất là phải đi vào nhờ Đạo Phật, trước hết để nhận diện sự vượt vận tốc 300.000 km/sec là một sự thực có, là một thực tại luôn luôn xảy ra chung quanh chúng ta. Cái gì vượt? Từ đó mới lập kế hoạch nghiên cứu, đặt mục tiêu tiến đến và hoạch định chương trình thực hiện.
***
Biến cố thứ hai trong năm 2010 là bài báo cáo của bà Felisa Wolfe-Simon1 (NASA Astrobiology Institude, USA) và cộng sự về một cái nhìn khác về hình thái của sự sống (*), nhân dịp khám phá một loại vi sinh vật được cấu tạo hoàn toàn khác với quan niệm hiện nay. Theo các lý thuyết sinh học hiện nay, mọi hình thái hữu cơ trên trái đất và cả ngoài trái đất chỉ được xây dựng với 6 nguyên tố: carbon, hydro, nitrogen, oxy, sulfur (lưu huỳnh) và phosphorus (phốt pho).
[*Chủ quan phán định sự sống có nguồn gốc không đúng với sự thật vì thực tại đều do duyên sinh … …].
Từ những tế bào giản đơn nhất, đơn bào, sống trong môi trường hiếm khí hay không có ánh sáng cho đến chủng loại cao cấp loài người đều chỉ gồm 6 nguyên tố đó mà thôi. Nay Wolfe-Simon chứng minh rằng đã có sinh vật không chứa phosphorus mà chứa arsenic (thạch tín).Với arsenic, vi sinh vật này cũng tăng trưởng tương tự như các vi sinh vật khác.Phát hiện này xem ra không quan trọng trong đời sống bình thường, nhưng trong ngành sinh vật học địa cầu và ngoài địa cầu, nó gây “chấn động mãnh liệt”.
Người ta bừng tỉnh thấy rằng lâu nay ngành sinh học quan niệm về sự sống một cách hạn hẹp, tự đưa ra hạn chế trong định nghĩa về hình thái của sự sống. Người ta thấy rằng phải từ bỏ hạn chế đó và cần tìm hiểu lại sự sống ngay trên trái đất này. Khi đó, với nghiên cứu về sự sống ngoài hành tinh, người ta hy vọng sẽ mở rộng hơn tầm nhìn và khám phá những hình thái sống không thể ngờ tới. Thực tế là arsenic hiện hữu nhiều trong những môi trường cực lạnh, “linh động” hơn phosphorus và vì vậy dễ sinh ra sự sống hơn. Do đó khi xem arsenic là một nguyên tố của sự sống hữu cơ, người ta có nhiều hy vọng hơn sẽ tìm thấy sự sống khác trong vũ trụ.
Bài báo cáo về vi sinh vật này tuy có tính chất rất chuyên môn nhưng thật ra đã tạo nên một niềm triển vọng và phấn khích mới. Đó là con người chỉ thấy rằng mình chỉ là một hình thái trong vô số hình thái của sự sống. Điều này làm ta nhớ tới khái niệm “Diệu hữu” trong đạo Phật. Sự tồn tại (hữu) là vô tận, số lượng của thế giới và của các loài sinh vật, từ đơn giản đến cao cấp, là vô tậnCó thể con người một ngày kia sẽ đến chỗ thừa nhận là sự sống có những hình thái hoàn toàn khác hẳn, không phải chỉ gồm 6 nguyên tố mà nhiều hơn hẳn. Cũng có thể người ta sẽ đến với nhận thức là tư tưởng và tình cảm cũng là một dạng của sự sống mà “thân” của chúng không phải là các yếu tố “vật chất” mà là những sóng tương tự như những sóng điện từ.
Cuối cùng khi con người nhận thấy đời sống là nhất thể, vàmọi hình thái của nó, từ vật chất đến phi vật chất, đều là những “pháp” vô ngã, vô thường, khi đó khoa học tạm gọi là sẽ đồng quy với Phật giáo.
Đồng chủ biên cuộc khảo cứu, giáo sư Paul Davies thuộc Arizona State University và Viện Sinh học Không gian của NASA, nói với BBC News2: Vào lúc này chúng ta không biết sự sống chỉ là một tai nạn ngẫu nhiên xảy ra trên trái đất, hay đó là một phần của một tiến trình sinh hóa tự nhiên qua đó sự sống xuất hiện ở bất kỳ đâu có điều kiện trên trái đất (*). Davies ủng hộ quan niệm “… sự sống xuất hiện ở bất kỳ đâu có điều kiện như trái đất” và điều này rất phù hợp với quan niệm Duyên khởi của đạo Phật, tức là cho rằng hễ có điều kiện như nhau thì sự sống phát sinh như nhau chứ một hiện tượng không thể xuất hiện “ngẫu nhiên” một lần rồi thôi. Hai biến cố kể trên, một bên thuộc phạm vi vật lý lý thuyết, bên kia của vi sinh vật, có một ý nghĩa thú vị ở đây.
GÓP Ý 3: Tôi đồng ý quan điểm của anh Bách là bà Felisa Wolfe Simón đưa ra rất phù hợp với giáo lý duyên khởi và tôi còn tin đây là hướng mở để dẫn đến sự khoa học tương lai hướng đến việc thực hiện được sự truyền thông vượt vận tốc 300.000 km/sec, truyền thông tư tưởng. Các quan niệm ngẫu nhiên, tình cờ chẳng qua chỉ là hệ quả của nhị nguyên nhận thức khi gặp sự cố gì vượt qua tầm thấy biết của giác quan mà thôi. Thế kỷ 20 mở đầu của thiên niên kỷ 3, kỷ nguyên của khoa học liên hành tinh và vũ trụ phải là kỷ nguyên đánh dấu sự khoa học con người thực hiện cho kỳ được sự vượt vận tốc 300.000 km/sec. Sự vượt này có thể xem như có sự chuyển “tầng” (layer) và điều này được giáo sư Trần Chung Ngọc dựa trên Kinh Hoa Nghiêm viết rằng: “…thực thể của một cấp, không thể giải thích bằng quan niệm của một cấp thấp hơn …” và “…một cấp cao hơn, siêu việt và dung nhiếp các cấp thấp hơn, nhưng không có vấn đề ngược lại.”
[Tôi mong sẽ có dịp được trình bày trực tiếp toàn bộ việc vượt vận tốc 300.000 km/sec này trong tài liệu “VẬN TỐC, CHIẾC CHÌA KHÓA HUYỀN DIỆU”.]
***
Nhận thức của Hawking trùng hợp với thuyết “Chân không” và Vô ngã (*), còn phát hiện của Wolfe Simon làm ta liên tưởng đến tính “Diệu hữu” (*) và duyên khởi của đạo Phật.
Chân không-Diệu hữu vốn là vấn đề của vũ trụ quan của Phật giáo. Theo đó, mọi hiện tượng đều xuất phát một cách nội tại từ “Không”, không do tác nhân bên ngoài. Chúng xuất hiện trong thế gian và tuân thủ nguyên lý Duyên khởi, đủ điều kiện thì sinh, đủ điều kiện thì diệt. Các hiện tượng đó không ai làm chủ nhân, chúng làm tiền đề cho nhau để sinh và diệt. Khi sinh thì sinh từ chân không, khi diệt thì không còn chút bóng hình lưu lại. Các hiện tượng, mà trong đạo Phật gọi là “pháp”, không chịu sự hạn chế nào cả, không có ai lèo lái chúng cả. Khi đủ điều kiện thì mọi hình thái của sự sống đều khả dĩ, khả năng xuất hiện của chúng là vô tận, “bất khả tư nghì”. Diệu hữu bao trùm mọi hiện tượng, vật lý cũng như tâm lý, nằm ngoài khả năng suy luận thông thường của con người chúng ta. Cụ thể, khi nói về con người thì đó là một tổng thể gồm hai mặt tâm lý và vật lý với năm yếu tố mà ta gọi là Ngũ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức). Năm yếu tố đó vận hành vô chủ (*).
GÓP Ý 4: Trước hết, tôi không đồng tình với Hawking mọi hiện tượng đều xuất phát một cách nội tại từ “Không”. Không của Hawking là “không ngơ” vì nơi thế giới vi mô sự quan sát của quan sát viên có ảnh hưởng trên các đối tượng bị quan sát cơ mà! Có vai trò của chủ thể quan sát trên đối tượng bị quan sát. Ở đây, Hawking chỉ mới trình bày về hiện tượng giới theo khoa học và với nhãn quang của loài người qua sự thấy biết bởi các giác quan như mắt, tai nên hệ lụy trung gian tương tác như ánh sáng, âm thanh (*). Vượt qua sự thấy biết của giác quan chúng ta không biết, không thấy nên mới nói là từ “không”. Thực sự thì sự việc chỉ có thể hiểu và biết được khi đã hiểu rõ bản chất của ánh sáng. Đã đến lúc chúng ta cần phải nhận diện, biết được bản chất của ánh sáng, âm thanh thật sự là gì?
THỰC TẠI: VẤN NẠN CỦA KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Có lẽ phải trình bày thêm về thực tại (chân sự = chân tướng sự vật = reality). Nói đến thực tại có nhiều “mức độ”, tạm chia làm 3:
1.- Thực tại chủ quan tương ứng với nhận thức chủ quan, với nhận thức chủ quan thì không thể giải đáp được như tôi có đề cập đến ở trên.
2.- Thực tại khách quan tương đối, ứng với trường hợp ngoài vũ trụ gọi là vũ trụ của chúng ta còn vật chất và như thế cái bao trùm nó (vũ trụ) chúng ta gọi là cái gì? Siêu vũ trụ!? Chưa kể lại còn ngoài và ngoài nữa …v.v… . Quan điểm này làm cho chúng ta nghĩ đến vũ trụ tương ứng hóa thân và ứng thân trong Phật giáo. Đây không phải là việc khoa học thắc mắc đến nhưng chúng ta cần phải bàn. Bàn đến thế thôi! Điều này cho thấy quan điểm của Hawking cũng như khoa học thực nghiệm thuần túy đã đến giới hạn của nó rồi! Tôi liên tưởng đến lời khuyên của thày dạy của Max Planck: “Vật lý học đã chấm dứt, anh bạn trẻ ơi – Đó là con đường cụt!” (Physics is finished young man – It’s a dead end street.)
3.- Thực tại tuyệt đối hay thực tại tối hậu (réalité ultime des choses) ứng với trường hợp vũ trụ với khối lượng vật chất (sắc chất) là vô cùng, vô tận.
Thực tại tối hậu đồng nghĩa với “Pháp thân” mà trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Thích Ca có dạy: “Còn ta (Đức Phật) thì trái với vọng trần, hiệp với chân tâm thường trụ – bất sinh, bất diệt, biến khắp cả pháp giới – cho nên ta mới được tự tại, vô ngại. Ở trong một hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ … không rời đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô biên tận. Trên đầu một mả lông hiện ra các cõi nước, ngồi trong hạt bụi mà chuyển “Đại pháp luân”. Vì ta diệt hết vọng trần, trở lại bản tm6 thanh tịnh nên mới được như vậy.”
***
Những phát hiện của khoa học làm chúng ta kinh ngạc về tri kiến của Phật và các vị Tổ. Các vị đã phát hiện những quy luật của vũ trụ không bằng phép nghiên cứu thực nghiệm mà bằng trực giác trong một dạng tâm thức phi thường của thiền định. Qua thời gian, thực tế cho thấy các phát hiện của khoa học không hề bác bỏ vũ trụ quan Phật giáo mà ngược lại, chúng trùng hợp một cách kỳ lạ. Tuy nhiên chúng ta cần tránh một thái độ, đó là xem khoa học như thước đo đúng sai đối với nhận thức luận Phật giáo. Lý do là Phật giáo chủ yếu nhận thức về hoạt động của tâm, trong lúc khoa học vật lý hay sinh học thiên về vật chất. Tất nhiên Phật giáo xem tâm-vật nằm chung trong một thể thống nhất và mặt khác, khoa học vật lý hiện đại cũng phải thừa nhận vai trò của người quan sát (tức là vai trò của tâm) trong mọi thí nghiệm. Nhưng phải nói phạm vi nhận thức giữa khoa học và Phật giáo rất khác nhau. Một điều mà ta không quên nữa là Phật giáo nhận thức thế giới với mục đích là thoát khỏi sự ràng buộc của tâm - là thoát khổ,  bằng các phương pháp tu dưỡng tâm. Còn nhà vật lý hay sinh học chỉ nhận lại ở sự nhận thức. Vì vậy, khi so sánh Phật giáo và khoa học, tuy có nhiều thú vị và hứng khởi, ta cần biết giới hạn của nó. 
GÓP Ý 5: Sự trùng hợp giữa khoa học và Phật giáo nếu có thì cũng chỉ ở (thuộc) thế giới hiện tượng qua sự mắt thấy, tai nghe (thuộc nhục nhãn) thôi. Khoa học đã bị dừng lại nơi biên của hiện tượng giới. Để tìm lối thoát cho khoa học, chắc chắn phải nhờ Phật giáo dẫn đường. Chiếc chìa khóa mở cửa cho cơ học lượng tử chính là vận tốc. … … .
***
Chân không-Diệu hữu là một chìa khóa để hiểu nhận thức luận về bản thể và hiện tượng của Phật giáo. Vì mọi hiện tượng xuất phát từ “Không” nên nó không có một bản chất trường tồn và riêng biệt, đó là thuyết Vô ngãChỉ có Ngũ uẩn đang vận hành, không có người vận hành chúng. Tương tự,Hawking cho rằng có sự sáng tạo nhưng không có ai sáng tạo cả. Thuyết Vô ngã khó hiểu cho những ai mới làm quen với đạo Phật. Cũng thế, vũ trụ tự sáng tạo và sáng tạo một cách tuyệt diệu, nhưng không có đấng sáng tạo.
GÓP Ý 6: Tôi hoàn toàn không đồng ý đoạn trên: Chân không diệu hữu là chiếc chìa khóa để hiểu nhận thức luận về bản thể và hiện tượng của Phật giáo. Vì mọi hiện tượng xuất phát từ “Không” nên nó không có một bản chất trường tồn và riêng biệt, đó là thuyết vô ngã.
Để góp ý với sự tìm hiểu “CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU”, THUYẾT VÔ NGÃ, tôi xin trình bày gián tiếp và chúng ta phải “tự” nghiền ngẫm rồi sẽ nhận ra vì các danh xưng thì thế, nhưng có “tu” mới tự biết, bằng không dùng ngôn ngữ thì chỉ để mà hí luận cho vui thôi! Khi tam nghiệp tham, sân, si hoàn toàn sạch trơn tức thể tánh hoàn toàn thanh tịnh, không còn cấu nhiễm thì “tự thể” là “Chân như” hay “Như như”.
CHÂN KHÔNG – DIỆU HỮU
Với “Pháp thân (Phật thân) đồng với không gian. Ở trên có viết về “Pháp thân” rồi. Bổ túc thêm: Khi đạt quả vị Phật có câu: “Phật thân thanh tịnh vô bối tướng. Nhất thiết chúng sinh tọa đối diện.”
Với Pháp tánh (Phật tánh) đồng với thời gian hay cũng có thể hiểu đồng với vận tốc vô cực (∞) vậy: Thời gian là gì? Trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật dạy: “Thời gian chỉ là ảnh tượng, ấn tượng được dệt nên bởi tâm thức của chúng sinh. Tâm thức tuy vô hình, vô ảnh nhưng lúc nào cũng thoi thóp, cũng bập bềnh giao động như nhịp đập của con tim vũ trụ. Chính do bởi cái nhịp bập bềnh giao động, cái động niệm đó đã tạo nên thời gian. Tâm thức tùy thuộc sự thanh tịnh hay cấu nhiễm mà có nhiều “mức độ” khác nhau, ứng vào đó sự cảm nhận về thời gian khác nhau cho mỗi chúng sinh, mỗi loại chúng sinh, mỗi cõi chúng sinh mà chúng sinh không hay, không biết. Mức độ tâm thức được diễn tả bằng thế tốc của các làn sóng quang minh, tâm thức càng thanh tịnh thì thế tốc của các làn sóng quang minh càng nhanh, do đó thời gian được hóa giải. Khi một hành dả hóa giải được thời gian thì sẽ đạt đến mùa Xuân miên viễn.”
Chỉ có ngũ uẩn đang vận hành, không có người vận hành chúng. Nhưng nên nhớ “nghiệp” vận hành thì từ đó mới có “báo thân” là “chính báo” và sơn hà đại địa tương ứng là “y báo”. Trên loài người một “tầng” (layer) có ông Trời cõi lục dục … ông ta ở , sống trong vũ trụ có 4 chiều, cho nên ông ấy thấy chúng ta mà chúng ta không thấy ông ta! Đoạn này nếu trình bày qua ngôn từ thì vui lắm lắm. Không nên vô tình xem như khoa học có thể giúp chúng ta tìm đến chân lý. Khoa học tự nhiên muốn tồn tại bắt buộc phải thay đổi mà thay đổi nhận thức phải nhờ Phật giáo và đã đến thời điểm mà loài người cần đến một bộ môn khoa học phối hợp. Mong rằng sẽ có dịp viết thêm.
***
Đó là điều cũng khó hiểu cho nhiều người phương Tây.Hawking chứng minh vũ trụ xuất phát từ cái “Không”, ông bác bỏ sự cần thiết của một Thượng đế nhưng có lẽ ông không biết “Không” là gì. Là một nhà vật lý, ông khó có thể biết hơn. Thế nhưng lại đến phiên ta kinh ngạc về khoa học vật lý. Dù tự hạn chế mình trong lĩnh vực vật chất, vật lý đã đi đến tận cùng biên giới của vật chất, gõ cửa ngành bản thể học và gần như chạm đến “chân lý tuyệt đối” của đạo Phật. Vị trí của Hawking làm ta nghĩ đến luận sư Long Thọ (*)cả hai vị đều cho rằng “Không” là nguồn gốc của muôn vật, nhưng cả hai đến từ hai chân trời khác nhau.
Phật và các vị Tổ Phật giáo biết “Không” là gì bằng trực quan. Tính Không như thể là tính quy luật sinh hóa đa diện của vũ trụ và vạn vật mà ngôn ngữ không đủ diễn bày trọn vẹn được. Cũng như thế trong vật lý lượng tử, người ta thấy ngôn ngữ và cách suy luận thông thường không còn thích hợp. 
Giữa Phật giáo và khoa học, sự trùng hợp rất lớn mà sự khác biệt cũng rất lớn.  Nhà vật lý tin rằng có một vụ “nổ ban đầu” (Big Bang) cách đây khoảng 14 tỉ năm để sinh ra vũ trụ vật lý. Thiền giả thấy có một sự “bùng nổ” trong tâm xảy ra trong từng sát-na. Đó là cách nói gọn nhất về sự khác biệt giữa Phật giáo và khoa học.
GÓP Ý 7: Làm sao có thể so sánh quan điểm “không” của Hawking, cái “không ngơ” với tánh không” của Đạo Phật được. Trong thập niên 1970’s, bí quá các nhà khoa học còn chia ra hai loại “hư không” là “hư không thật” (true vacuum) và “hư không giả” (false vacuum) để cố gắng mở lối thoát cho khoa học, nhưng càng bế tắc. Làm thế nào để có thể so sánh Hawking ngang với Tổ Long Thụ!? Big Bang chết rồi! Sự trùng hợp nếu có thì chỉ ở thế giới hiện tượng, mọi sự thấy biết qua các căn nên phải cần/qua trung gian nên không thể hiện được “đúng” thực tại. Với thực tại (chân sự, chân tướng) thì George Berkeley phát biểu: “Phát triển định đề mà đó là ý nghĩ, đó là tâm thức và không phải là vật chất, đó là căn bản của thực tại: Đó là, thực tại là sự trực nhận.” 
Giới Hiền Nguyễn Tiến Đạt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét