Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013
Ông Sang đến Washington Bản dịch của Phạm Vũ Lửa Hạ
Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013 vào lúc 5:575:57
Thư có đánh dấu sao
Chủ tịch TT Sang đến Hoa kỳ
từ Nguyen Nguyen Quynh đến người nhận
Hiện chi tiết
Nguồn: Greg Rushford, Mr. Sang Comes to Washington, Rushford Report, 23/7/2013.
Ông Sang đến Washington
Bản dịch của Phạm Vũ Lửa Hạ
Phần 1, Phần 2
Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang – một ủy viên cao cấp có thế lực của Bộ Chính Trị cầm quyền, nơi những quyết định quan trọng của chính quyền được đưa ra và ấn xuống cho Trung ương của Đảng Cộng sản cầm quyền – sẽ gặp gỡ hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama ở Nhà Trắng vào ngày 25/7. Dù gì đi nữa, cuộc gặp hôm Thứ Năm sẽ có ý nghĩa quan trọng với hai vị nguyên thủ quốc gia. Cuộc gặp diễn ra vào thời điểm có những căng thẳng gia tăng lâu nay vẫn kìm hãm các mối quan hệ chiến lược và kinh tế mật thiết hơn giữa hai nước cựu thù trong chiến tranh.
Chủ tịch Sang và Tổng thống Obama có cơ hội vun đắp mối quan hệ song phương (tôn trọng lẫn nhau) sâu sắc hơn. Nhưng vẫn chưa rõ liệu có vị lãnh đạo nào có tầm nhìn hay bản năng chính trị cần thiết để nắm bắt cơ hội này hay không. Hai vị nguyên thủ quốc gia này có thể chỉ cố gắng tán dương cho hấp dẫn, mong sao bỏ qua những bất đồng quan trọng về các vấn đề cốt lõi hiện đang chia rẽ Washington và Hà Nội. Trong đó, hai vấn đề nan giải nhất là: những cách hành xử nhân quyền của Việt Nam xúc phạm các chuẩn mực luật pháp quốc tế được chấp nhận (theo cách nhìn của Washington), và các áp lực kinh tế đầy xúc phạm của nước giàu (quan điểm của Hà Nội).
Nhà Trắng đã liệt kê “nhân quyền” là chủ đề đầu tiên trong ba chủ đề sẽ có trong chương trình nghị sự khi hai vị lãnh đạo gặp nhau hôm Thứ Năm. “Biến đổi khí hậu” là ưu tiên thứ hai được nêu, và tiếp theo là các cuộc đàm phán thương mại Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với sự tham gia của Mỹ, Việt Nam, và 10 nước Châu Á- Thái Bình Dương khác.
Nhưng chương trình nghị sự thực sự lại rộng hơn, gồm những quyết định căn bản mà cả hai nước cần đưa ra về việc liệu có nên tăng cường hợp tác chiến lược và an ninh giữa hai nước hay không. Nhà bình luận sắc sảo David Brown, một cây bút đặc biệt cho tờ Asia Sentinel, đã viết rằng Chủ tịch Trương Tấn Sang và Bộ Chính trị dường như đã “bị lay chuyển” khi ông Sang thăm Bắc Kinh vào tháng Sáu. Có vẻ như trong các cuộc hội đàm kín với những vị lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc, trong đó có Chủ tịch Tập Cận Bình, chủ tịch nước Việt Nam ra về với những lời lẽ tốt đẹp, nhưng chẳng có gì thực chất. Do “cuộc gặp rõ ràng đáng thất vọng với các lãnh đạo của Trung Quốc”, tác giả Brown viết, một cuộc viếng thăm “vội vã” đến Washington được sắp xếp sau đó. Ở Washington, Bộ Chính trị muốn Chủ tịch Sang tìm hiểu xem liệu Tổng thống Obama – một chính khách, theo cách nhìn của một số người Châu Á, nổi tiếng là chủ yếu nói toàn điều hay ý đẹp trong các cuộc tiếp xúc với các nguyên thủ nước ngoài – sẽ có giúp ích được gì hơn hay không.
Cả hai chính phủ đều không tiết lộ thêm chi tiết về nội dung hội đàm giữa Trương Tấn Sang và Obama vào hôm Thứ Năm. Một phát ngôn viên Nhà Trắng thậm chí còn không cho biết hai vị nguyên thủ sẽ hội đàm ở phòng nào trong Nhà Trắng, chứ đừng nói gì đến chuyện cho biết tên những nhân vật khác sẽ có mặt trong phòng họp.
Nhìn kỹ mỗi đề mục trong ba vấn đề cụ thể trong chương trình nghị sự hội đàm Sang-Obama, ta thấy với mỗi vị nguyên thủ, bất cứ trao đổi ngoại giao thật sự “thẳng thắn” nào cũng sẽ đặt ra những câu hỏi gây khó xử, đó là chưa kể các tình huống làm bẽ mặt lẫn nhau.
Với Trương Tấn Sang, câu hỏi gây khó xử sẽ là giải thích cho Obama hiểu giới lãnh đạo Việt Nam nghĩ là họ thực sự được lợi gì khi giam giữ hơn 160 tù chính trị. Đây là những công dân Việt Nam không phạm “tội” gì cả – ngoài việc lên tiếng hòa nhã than phiền rằng chính quyền của họ bị xem là ngày càng tham nhũng và thiếu trách nhiệm giải trình. Và Obama có thể hỏi về một nghị định của Hà Nội ngày 15/7 nhằm cấm ngôn luận “chống lại nhà nước của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, hay bất cứ ý kiến phê phán nào mà đảng e ngại có thể “gây nguy hại cho an ninh quốc gia”, theo tường thuật của Đài Á Châu Tự Do. Nghị định này ngắm đến các biểu tượng internet phổ biến như Google và Facebook.
Dĩ nhiên, luôn nan giải cho người Mỹ khi bày tỏ các quan điểm hợp lý về nhân quyền mà không có vẻ ngạo mạn hay dạy đời dưới con mắt của giới lãnh đạo Việt Nam luôn nhạy cảm. Nếu bị gây sức ép quá nặng nề, hay quá công khai, cộng sản có thể chỉ việc bắt bớ thêm nhiều blogger vô tội để dằn mặt người Mỹ. Nếu Mỹ không làm căng, chính quyền Hà Nội có thể cứ tiếp tục làm bất cứ chuyện gì họ thích. Xưa nay, chưa ai thực sự hình dung được ngôn ngữ ngoại giao phù hợp nhất.
[Và nếu giọng điệu của Obama về nhân quyền xúc phạm Trương Tấn Sang, Chủ tịch Việt Nam có thể nêu ra vấn đề dioxin. Trương Tấn Sang có thể hỏi liệu vị lãnh đạo Mỹ có thấy xấu hổ về việc một phát ngôn viên của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội gần đây phủ nhận với Drew Brown, phóng viên của McClatchy, rằng không có chuyện nhiều công dân Việt Nam ngày nay vẫn chịu những ảnh hưởng thảm khốc của dioxin do Không lực Hoa Kỳ rải trên đất Việt Nam trong thời kỳ bắn phá.]
Với Obama, có lẽ điều khiến bẽ mặt nhất là Nhà Trắng của ông – vì những lý do hoàn toàn mang tính cục bộ địa phương trong nước liên quan đến những quan hệ chính trị của ông với các nghiệp đoàn Mỹ và sự vận động hành lang của ngành dệt Mỹ không có khả năng cạnh tranh toàn cầu – đã quá quắt đưa ra những yêu sách đối với Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương mại TPP mà Bộ Chính Trị có họa là dại dột mới chấp nhận. Quả thực, những áp lực kinh tế khá thô thiển của Obama lâu nay đang tạo ưu thế cho những người ở Hà Nội ngày càng nghi vấn giá trị của các mối quan hệ thương mại và chiến lược mật thiết hơn với Mỹ.
Ngoài khả năng có thể làm bẽ mặt lẫn nhau, hóa ra điều mà Nhà Trắng muốn bàn về biến đổi khí hậu cho thấy (rất có thể ngoài dự kiến của cả Trương Tấn Sang lẫn Obama) việc tăng cường quan hệ kinh tế song phương đã trở nên phức tạp đến mức nào.
Quyền lực chính trị và điện lực
Về biến đổi khí hậu, có thể Obama chỉ muốn đánh bóng phẩm chất ‘xanh” của mình bằng cách giảng cho Chủ tịch Sang một bài hay về tầm quan trọng của việc các quốc gia hợp tác với nhau để giải quyết tình trạng địa cầu ấm lên.
Nhưng còn một điều quan trọng khác đang diễn ra giữa Washington và Hà Nội cho thấy ý nghĩa chính trị của vấn đề biến đổi khí hậu đã xen vào mối quan hệ song phương ra sao. Không chắc là nhân viên Nhà Trắng – hiện nay dường như phải dàn sức đảm đương quá nhiều việc – đã báo cáo tóm lược cho Obama biết về các tác động của một quyết định hồi tuần trước của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ (Ex-Im Bank) từ chối dùng nguồn vốn tài trợ xuất khẩu của Mỹ để xây một nhà máy nhiệt điện chạy bằng than công suất 1.200 megawatt ở tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Nhưng chắc chắn, chủ tịch Sang không cần được báo cáo tóm lược đặc biệt mới hiểu trọn vẹn các tác động do hành động của Mỹ. Sở dĩ như vậy là do quyết định của Ex-Im Bank đi thẳng vào trung tâm của cách thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam ngày nay – và chạm đến những cái đầu nhạy cảm trong Bộ Chính Trị.
Trong một bức thư ngày 17/7 gởi cho tổng thống Obama, Greenpeace, Friends of the Earth và các tổ chức môi trường khác phàn nàn rằng “nhà máy chạy bằng than bẩn này sẽ gây ô nhiễm ở mức không thể chấp nhận được mà sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng xáo trộn khí hậu và đầu độc các cộng đồng địa phương”. Kế hoạch hành động về khí hậu của Obama, họ nhận xét (rất đúng), phản đối việc Mỹ tài trợ cho các dự án than ở nước ngoài, với lý do là chúng làm tăng lượng khí thải nhà kính.
Các nhóm vận động hành lang về môi trường đã khắc họa chính xác các chính sách hành động về khí hậu của Obama. Quy định hướng dẫn của Ex-Im Bankvề cơ bản không tài trợ cho các dự án nước ngoài có độ carbon cao chẳng hạn như các nhà máy than. Hiện nay, Ex-Im Bank quan tâm hơn đến việc tham gia vào các dự án năng lượng có thể tái tạo. Dù sao, sau khi thực hiện một cuộc “thẩm định chi tiết”, cơ quan tài trợ xuất khẩu Mỹ đã phát hiện rằng nhà máy ở Thái Bình không hội đủ tiêu chuẩn. Vì thế, ngân hàng không kiểm tra các chi tiết khác của dự án: vốn tài trợ, mức độ khả tín, vân vân.
Phần lớn những điều nêu trên đã được các hãng tin Mỹ đưa – nhưng phần hay nhất của câu chuyện này lại không được tường thuật: chính xác là ai đã muốn nguồn vốn tài trợ xuất khẩu của Mỹ cho Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình?
Ex-Im Bank không nêu những chi tiết như vậy trong tài liệu công bố công khai trước khi các dự án được phê chuẩn, nhưng tìm hiểu thêm một chút thì thấy rằng người ta mong có nguồn vốn của Ex-Im Bank để giúp một trong những đại tập đoàn quốc doanh của Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (tự gọi mình là PV Power). PV Power là công ty con của Tập Đoàn Dầu khí Quốc Gia Việt Nam (tên tắt là PVN). Theo một bản tin tiếng Việt năm 2011, Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 của PV Power là một dự án trị giá 1,6 tỉ Mỹ kim. Các đơn vị chính là các hãng xây dựng Hàn Quốc và Nhật.
Ngày 3/8/2012, Babcock & Wilcox Co., công ty có trụ sở ở Charlotte, Virginia, thông báo rằng một công ty con đóng ở Bắc Kinh –Babcock & Wilcox Beijing Co. Ltd. – đã giành được hợp đồng trị giá 300 triệu Mỹ kim liên quan đến Thái Bình từ công ty Daelim Industrial Co. Ltd. của Hàn Quốc. Công ty Babcock & Wilcox nói rằng họ sẽ thực hiện công việc kỹ thuật ở Bắc Kinh cho hai lò nung chạy bằng than cho dự án Thái Bình, và cũng sẽ tham gia vào sản xuất.
Tuy một phát ngôn viên của Babcock & Wilcox không thể trả lời các câu hỏi về dự án Thái Bình trước khi bài báo này lên khuôn, dường như PetroVietnam và công ty Hàn Quốc muốn xin nguồn vốn tài trợ từ Ex-Im Bank để mua thiết bị do Mỹ sản xuất. Tài liệu công bố công khai không có chi tiết về số việc làm ở Mỹ mà nguồn tài trợ xuất khẩu này lẽ ra đã có thể hỗ trợ. (Cũng không rõ vai trò mà than có – hoặc có thể nên có – trong việc giải quyết các nhu cầu năng lượng của một nước đang phát triển như Việt Nam).
Sự liên can của PetroVietnam, đối với những ai hiểu cách vận hành của cái có thể gọi là “nền kinh tế chính trị” Việt Nam, cho thấy các hậu quả của câu chuyện này vượt ra ngoài khuôn khổ của một cuộc đấu tranh bình thường về đồng vốn và việc làm với chỉ một công trình xây dựng.
Các công ty quốc doanh kiểm soát có lẽ một phần ba nền kinh tế Việt Nam. Kém hiệu quả, bí mật và thường bị xem là có tham nhũng, các công ty quốc doanh cũng là chỗ kiếm tiền cho các đảng viên cộng sản cao cấp. Các công ty này trực thuộc văn phòng Thủ tướng, và vì vậy là một nguồn quan trọng để bổ nhiệm với mục đích ban phát bổng lộc và tạo ảnh hưởng chính trị. (Thử tưởng tượng Tổng thống Obama bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao của một phần ba trong 500 công ty hàng đầu theo xếp hạng của Fortune, chẳng hạn như Boeing, General Electric, Microsoft, Google, Exxon, vân vân.)
Trong các cuộc đàm phán thương mại TPP, phía Mỹ đang yêu cầu Việt Nam tiến hành những cải cách về tính minh bạch, và thực hiện những biện pháp nhằm giúp các công ty quốc doanh có tính định hướng thị trường hơn. Như vậy là đòi hỏi quá nhiều, nếu xét đến thực tế là cũng chính các tập đoàn nhà nước đó lâu nay đã giúp nhiều cán bộ đảng cao cấp – bao gồm cấp Bộ Chính Trị – trở nên giàu sụ. Trong gần suốt mười năm qua, Bộ Chính Trị đã chật vật tìm cách xử lý vấn nạn này.
PetroVietnam lâu nay đã có nhiều điều tiếng ở Việt Nam. Hồi tháng 10 năm ngoái, một bài trên nhật báo Thanh Niên cho biết PetroVietnam đã bị chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh chỉ trích với lý do công ty này “cần công bố tài chính và số liệu lợi nhuận”.
Bài viết của báo Thanh Niên nói thêm rằng đại tập đoàn quốc doanh này đã phủ nhận những lời tố cáo công khai của các đại biểu quốc hội cho rằng tập đoàn lâu nay sử dụng tiền thuế của dân để đầu cơ bất động sản. Rồi tờ Thanh Niên đặt câu hỏi tại sao PV Power và các công ty con thuộc sở hữu 100% của PVN có công ty bất động sản của riêng mình. Tờ báo này thậm chí còn đăng ảnh chụp Nam Đàn Plaza ở Hà Nội, được mô tả là “một dự án trung tâm mua sắm cao cấp do PV Power đầu tư xây dựng”. (Theo quan điểm của giới quản lý công ty quốc doanh, đầu cơ bất động sản hẳn có lãi hơn điện lực, vì chính phủ buộc họ ấn định giá điện quá thấp cho người tiêu dùng Việt Nam nên không thể kinh doanh có lãi được.)
Tuần này, các quan chức Việt Nam cùng công cán với Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ ra sức thuyết phục các quan chức của Ex-Im Bank. Trong khi Chủ tịch Trương Tấn Sang và Obama hội đàm. Khó có khả năng họ sẽ thành công. Các quan chức Mỹ có thể thắc mắc liệu các quan chức PetroVietnam có dùng bất cứ khoản lãi nào thu được từ nguồn vốn vay lãi thấp của Mỹ để đầu cơ vào các thương vụ bất động sản mạo hiểm hơn hay không.
Một sự kết hợp tế nhị
Chính quyền Obama đã tăng sức ép về những cách hành xử nhân quyền của Việt Nam. Cái giá Việt Nam phải trả để gia nhập TPP, và để xây dựng mối quan hệ chiến lược thực thụ với Washington, sẽ được ràng buộc rõ ràng với tiến bộ “có thể chứng minh được” về nhân quyền, như Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David Shear nói hôm 1/6 với Việt kiều Mỹ ở Orange County, California. Phát biểu của ngài đại sứ có bối cảnh không thể nhầm vào đâu được: “Kể từ khi đến nhậm chức ở Việt Nam vào tháng 8/2011, tôi vẫn nói với các quan chức cao cấp của Việt Nam rằng nếu người Việt muốn tham gia TPP, nếu họ muốn hợp tác mạnh hơn về ngoại giao trong khu vực dẫn đến một mối quan hệ đối tác chiến lược, thì chúng tôi cần thấy Việt Nam có tiến bộ có thể chứng minh được về nhân quyền”.
Xưa nay chủ trương chính thức của Mỹ thường không đưa ra một ràng buộc rõ rệt như vậy về nhân quyền trong bất cứ cuộc đàm phán thương mại nào. Phát biểu của đại sứ Shear – mà ông từ chối không bình luận thêm – ban đầu bị cho là không nghiêm túc theo nhận định của một số nhà quan sát thương mại dày dạn kinh nghiệm; họ khuyến cáo không nên hiểu lời phát biểu đó sát theo nghĩa đen. Theo cách lý giải này, đại sứ Shear lúc đó chỉ nói với thính giả California những điều họ muốn nghe. Việt kiều Mỹ và các hạ nghị sĩ đại diện cho họ ở Hạ viện Mỹ lâu nay đã chỉ trích đại sứ Shear, với lý do là ông chưa làm đủ để cải thiện những cách hành xử nhân quyền của Việt Nam.
Song, đại sứ Shear là một nhà ngoại giao Mỹ được đánh giá cao với nhiều kinh nghiệm ở Châu Á – ông từng làm việc ở Nhật, Trung Quốc, và Malaysia, nói được tiếng Nhật và Quan thoại. Đại sứ Shear cũng không mang tiếng là nói càn. Trong lần xuất hiện ở Orange County hôm 1/6, ngài đại sứ nói chậm rãi và thận trọng, tạo ấn tượng là ông đang nhắc lại những ý kiến có ủy quyền chính thức. Ngoài ra, việc đại sứ Shear nhắc đến tình trạng thiếu tiến bộ về nhân quyền là rào cản lớn nhất đối với các quan hệ chiến lược Mỹ-Việt mật thiết là hoàn toàn nhất quán với chính sách đối ngoại chính thức của Mỹ như các quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao Mỹ thường bày tỏ. Quan điểm chính thức của Bộ Ngoại giao Mỹ là các quan hệ chiến lược Mỹ-Việt sẽ không cải thiện chừng nào chưa có “cải thiện có thể chứng minh được và lâu dài về tình hình nhân quyền”.
Đại diện Thương mại Mỹ Michael Froman đã từ chối đưa ra bất cứ lời đính chính ngoại giao nào để tách biệt chính sách thương mại của Mỹ với phát biểu của đại sứ Shear ở Orange County. Như vậy, có vẻ như Nhà Trắng an tâm với quan điểm cho rằng Đại sứ Shear nói sao thì Việt Nam nên hiểu đúng như vậy.
Xuất hiện cảnh sát thương mại Mỹ
Theo cách nhìn của Việt Nam, những đòi hỏi của Obama về nhân quyền trong các cuộc đàm phán TPP có vẻ như đầy xúc phạm.
Những nhà đàm phán thương mại của Obama lâu nay vẫn nhất quyết đòi hỏi trong TPP Việt Nam phải chấp nhận các yêu sách của giới vận động hành lang của các nghiệp đoàn Mỹ về việc Việt Nam cho phép tổ chức công đoàn độc lập – các quan chức Mỹ nhất quyết đòi hỏi điều này phải có khả năng thực thi. Dưới mắt người Mỹ, kết quả như vậy có thể được xem là tiến bộ về “nhân quyền”.
Trước khi chấp nhận ý tưởng này, Bộ Chính Trị có thể cân nhắc xem những dàn xếp tương tự đã có tác dụng ra sao cho những nước khác gần đây đã ký thỏa thuận thương mại với Mỹ.
Trong hiệp định thương mại song phương Mỹ-Colombia, quốc gia Mỹ Latinh đó đã buộc phải lập “kế hoạch hành động” về vấn đề lao động bao gồm các “cột mốc” có thể đánh giá được và một “hệ thống thực thi thiết thực”, với các quan chức Mỹ đóng vai trò người thực thi. Theo thực tế ở Washington, giới quan chức Mỹ rất chú ý đến giới hoạt động nghiệp đoàn AFL-CIO; giới này không bao giờ có vẻ hài lòng là người nước ngoài có đủ nỗ lực để đáp ứng các chuẩn mực của Mỹ.
Ngày 11/4/2013, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ và Bộ Lao động khoe họ đã thúc ép được Guatemala đệ trình “một kế hoạch thực thi thiết thực để giải quyết những quan ngại” đã được Mỹ nêu ra trong một khiếu nại về lao động trong hiệp định thương mại ưu đãi có sự tham gia của Mỹ và quốc gia Mỹ Latinh này. Giới chức Mỹ tự chúc mừng mình vì đã buộc Guatemala đưa ra một kế hoạch 18 điểm để thỏa mãn các yêu sách của Washington. Kế hoạch này “bao gồm những hành động cụ thể với các khung thời gian cụ thể mà Guatemala sẽ thực hiện trong vòng sáu tháng để cải thiện việc thực thi luật lao động”.
Đây là trường hợp đầu tiên về vấn đề lao động mà Mỹ đưa vào trong một hiệp định thương mại ưu đãi của mình – nhưng người Việt có đủ lý do để nghi ngờ rằng cảnh sát lao động Mỹ có nhiều ý đồ dành cho họ.
Tiêu chuẩn kép của Mỹ
Giờ đến phần hết sức bẽ bàng cho Obama trong câu chuyện này. Lý do khiến Việt Nam thấy các cuộc đàm phán TPP có sức hấp dẫn là khả năng mở rộng thêm cánh cửa vào các thị thường quần áo và giày dép được bảo hộ của Mỹ – được bảo hộ bằng các mức thuế nhập khẩu cao ở mức 16-18%, nhưng với một số ngành hàng, gấp đôi mức đó. Những nhà đàm phán thương mại của chính quyền Obama lâu nay về cơ bản vẫn đòi hỏi rằng cái giá để cắt giảm bất cứ loại thuế nhập khẩu nào đối với giày dép hay quần áo là Việt Nam đồng ý mua vải từ các nhà cung cấp Mỹ.
Ý tưởng này chẳng có gì hấp dẫn với Hà Nội.
Thứ nhất, như tôi đã viết trong bài Những ưu đãi dành cho các thuộc địa trong một đế chế trên trang này vào ngày 11/9/2012, một trong những nguyên nhân khiến Napoleon đệ tam phái hải quân Pháp chiếm cảng Sài Gòn năm 1859 là để bắt buộc người Việt mở cửa thị trường cho hàng dệt may xuất khẩu của Pháp. Giới kinh tế học ngày nay hẳn sẽ đồng ý rằng áp lực hiện nay của Mỹ trong TPP chỉ là một phiên bản hiện đại chủ nghĩa thực dân Pháp.
Thứ hai, cái gọi là quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” (“yarn forward”) không có tác dụng. Trong số các mặt hàng quần áo Mỹ nhập khẩu từ Mexico và các nước Mỹ Latinh khác đã bị các nhà đàm phán thương mại Mỹ bắt buộc chấp nhận các quy tắc rườm rà này, chỉ khoảng 17% thực sự được miễn thuế nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu thích đóng thuế nhập khẩu, hơn là phải vượt qua nhiều chướng ngại vật hành chính, chịu gánh nặng thủ tục giấy tờ tốn kém, và trăm thứ khác.
Và cuối cùng, thử nghĩ đến cách Chủ tịch Trương Tấn Sang – bị Washington công kích vì chính phủ Việt Nam can thiệp nhiều vào nền kinh tế – có thể xoay chuyển tình thế với Obama. Ông Sang có thể hỏi: Có hợp lý hay không nếu chính phủ Mỹ gây áp lực buộcnhững tập đoàn lớn của Mỹ như các công ty tên tuổi Levi, Strauss & Co. và Gap, chấp nhận mua nguyên liệu vải denim (nặng) từ các nhà cung cấp Mỹ rồi vận chuyển xuyên qua Thái Bình Dương đến Việt Nam? Có hợp lý hay không nếu Nhà Trắng gây áp lực buộc Hanesbrands tuy có các nhà máy sản xuất đồ lót và chuỗi cung ứng ở các nước Châu Á lân cận như Thái Lan và Trung Quốc nhưng phải mua vải bông từ phần lục địa của Mỹ rồi vận chuyển số hàng đó xuyên đại dương? Còn Patagonia, công ty sản xuất áo khoác bằng lông ở Việt Nam từ nguyên liệu kỹ thuật cao của Nhật, thì sao? Tại sao chính phủ Mỹ lại muốn làm đảo lộn các cơ sở hoạt động toàn cầu của những tập đoàn tư nhân được tôn trọng khác: Nike, Adidas, Macy’s, Nordstrom, và rất nhiều công ty khác nữa?
Dĩ nhiên Obama sẽ phải vất vả nghĩ ra những câu trả lời đáng tin về mặt kinh tế cho những câu hỏi như vậy. Nhưng Nhà Trắng đã nhiều lần nhất quyết là Việt Nam phải ngậm bồ hòn chấp nhận các quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi” đối với hàng dệt may, và cả các mức thuế nhập khẩu cao đối với giày dép.
Từ góc nhìn của Việt Nam, chiến lược đàm phán TPP gợi nhớ đến cách Tổng thống Lyndon Johnson và Tổng thống Richard Nixon từng đặt các chính sách của Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam trên tiền đề là nếu siêu cường quốc giàu có này gây đủ áp lực, quốc gia Đông Nam Á nhỏ bé này rốt cuộc sẽ chiều theo ý muốn của Mỹ. Nhưng trừ phi Việt Nam có được thêm cơ hội có ý nghĩa để tiếp cận thị trường Mỹ mà họ đang theo đuổi trong TPP, khó mà nghĩ ra được lý do nào hợp lý khiến họ phải chịu quy phục.
Triển vọng cho các mối quan hệ Mỹ-Việt mật thiết hơn?
Những điều bất định cuối cùng chính là Việt Nam thực sự muốn gì từ các mối quan hệ với Mỹ.
Học giả Carlyle Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Úc lý giải “có một cuộc cờ tế nhị hiện đang diễn ra” trong Bộ Chính Trị. Đây chẳng phải là lần đầu tiên trong lịch sử lâu đời của mình mà Việt Nam đang cố gắng cân đối các mối quan hệ luôn luôn sóng gió của mình với Trung Quốc, nước láng giềng Đông Nam Á gần nhất, và đồng thời với Mỹ. Carlyle Thayer nhận định: “Một số người ở Hà Nội muốn quan hệ tốt đẹp hơn với Mỹ, trong khi một nhóm khác muốn phá hoại các quan hệ đó”.
Theo Thayer và những nhà quan sát nhiều kinh nghiệm về Việt Nam được phỏng vấn cho bài viết này, chính nhóm thứ hai [muốn phá hoại quan hệ với Mỹ] dường như đang có ưu thế. Điều đó có thể giúp giải thích tại sao Việt Nam đã bắt giữ hơn 40 blogger hòa nhã trong năm nay, nhiều tù chính trị hơn cả năm 2012 – có lẽ là một tín hiệu thù địch có chủ đích dành cho Bộ Ngoại giao Mỹ và Nhà Trắng.
Đương nhiên, với bất cứ vấn đề nào liên quan đến Việt Nam, có quá nhiều hàm ý tinh tế đến nỗi chẳng bao giờ có điều gì đúng hệt như thoạt tưởng. Chuyến đi thăm Trung Quốc ba ngày của Trương Tấn Sang bắt đầu vào ngày 19/6 có thể được lý giải là một dấu hiệu cho thấy các quan hệ Việt-Trung mật thiết hơn đã được cân nhắc. Ngay cả khi đúng là thái độ không khoan nhượng của Trung Quốc đã làm hỏng các cuộc gặp gỡ đó, Bắc Kinh có thể hồi phục (ví dụ bằng cách bớt hung hăng hơn trong việc tuyên bố chủ quyền các vùng trong Biển Đông mà rõ ràng thuộc Việt Nam).
Nhưng nên lý giải ra sao chuyến đi thăm Lầu Năm Góc của Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, hôm 20/6, trong khi Trương Tấn Sang đang ở Trung Quốc? Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ đã hội đàm với Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ. Theo nhận xét của một phát ngôn viên của tướng Dempsey, chuyến đi của tướng Tỵ là cuộc viếng thăm đầu tiên của một vị tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam đến Mỹ. Phái đoàn quân sự cao cấp của Việt Nam đáng chú ý còn có Trung tướng Phạm Ngọc Hùng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo. Hẳn là có chuyện gì đây.
Kết luận tương đối rõ ràng duy nhất tại thời điểm này là Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực cân đối chính sách đối ngoại. Và do các vấn đề và những bất đồng chia rẽ Việt Nam, Trung Quốc, và Mỹ quá khó nên không thể giải quyết thật ổn thỏa, tình hình sẽ tiếp tục rối rắm hơn mong đợi.
Nguồn: Greg Rushford, Mr. Sang Comes to Washington, Rushford Report, 23/7/2013.
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ
==================
Tuyên bố chung của Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama
26/07/2013 01:10 (GMT + 7)
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama chào mừng Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tới Nhà Trắng ngày 25-7. Tại cuộc gặp, hai nhà Lãnh đạo khẳng định cam kết mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung.
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang (trái) đang hội đàm với Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại phòng Bầu Dục Nhà Trắng, thủ đô Washington, Mỹ ngày 25-7 - Ảnh: Reuters
Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang diễn ra vào một thời điểm quan trọng đối với cả hai nước, phản ánh mong muốn chung cùng xây dựng mối quan hệ hướng tới tương lai giữa hai nước.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh các nguyên tắc trong quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Hai nhà Lãnh đạo tuyên bố quan hệ Đối tác toàn diện nhằm góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng của mỗi nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Quan hệ Đối tác Toàn diện mới sẽ tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ thương mại và kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, văn hóa, thể thao và du lịch.
Hợp tác chính trị và ngoại giao
Trong khuôn khổ quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, hai bên nhất trí tăng cường trao đổi cấp cao, tiếp xúc ở tất cả các cấp và ủng hộ việc tăng cường các cơ chế đối thoại và hợp tác. Tổng thống Obama khẳng định Hoa Kỳ ủng hộ độc lập, chủ quyền, thịnh vượng và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh Hoa Kỳ tăng cường hợp tác tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đóng góp vào hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực.
Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại thường kỳ giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao, và khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan đảng của hai nước.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí tăng cường hợp tác tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, trong đó có Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hai nhà Lãnh đạo tái khẳng định ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có những quy định của Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS).
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama đồng thời tái khẳng định ủng hộ nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và tranh chấp lãnh thổ. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh giá trị của việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC), và tầm quan trọng của việc khởi động đàm phán để hoàn tất một bộ Quy tắc ứng xử (COC) có hiệu quả.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đánh giá cao Sáng kiến Hạ nguồn sông Mê Công (LMI). Hai nhà Lãnh đạo nhất trí hai bên nỗ lực cùng với các nước thành viên LMI khác và Nhóm Những người bạn của khu vực hạ nguồn sông Mê Công, tăng cường hơn nữa hợp tác khu vực nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng và phát triển bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, tăng cường kết nối và ứng phó với các thách thức xuyên quốc gia trong khu vực.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama chỉ đạo các cơ quan liên quan hoàn thành trong thời gian sớm nhất có thể thỏa thuận song phương về việc xây dựng các sứ quán và cơ quan đại diện của hai nước. Hai nhà Lãnh đạo khẳng định các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam và Hoa Kỳ tại thủ đô mỗi nước cần phản ánh sự phát triển của quan hệ song phương.
Quan hệ kinh tế và thương mại
Nhắc lại các cuộc thảo luận tại Campuchia vào tháng 11-2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama tái khẳng định cam kết hoàn tất đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) toàn diện và tiêu chuẩn cao vào thời điểm sớm nhất có thể trong năm nay. Hiệp định TPP của thế kỷ 21 sẽ tăng cường hội nhập kinh tế khu vực, thúc đẩy các mục tiêu phát triển và giúp tạo việc làm ở Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước thành viên TPP khác, trong khi tính đến sự đa dạng về trình độ phát triển của các thành viên trong khuôn khổ một thỏa thuận cân bằng và toàn diện.
Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh những nỗ lực không ngừng nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song phương và Tổng thống Obama ghi nhận những nỗ lực cải cách của Việt Nam với tư cách một nền kinh tế đang phát triển. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh giá trị then chốt của các nỗ lực này đối với quan hệ song phương và tầm quan trọng của hợp tác kinh tế như một nền tảng và động lực của Đối tác Toàn diện mới Việt Nam - Hoa Kỳ.
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Hội đồng Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA), cũng như theo sáng kiến Gắn kết Kinh tế Mở rộng ASEAN và trong APEC nhằm tăng cường liên kết kinh tế và thương mại phù hợp với Đối tác Toàn diện song phương và các mục tiêu chung trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), APEC và các diễn đàn của ASEAN.
Tổng thống Obama hoan nghênh những tiến bộ của Việt Nam trong cải cách kinh tế. Tổng thống Obama ghi nhận quan tâm của Việt Nam trong việc đạt được quy chế kinh tế thị trường và cam kết tăng cường hợp tác mang tính xây dựng với Việt Nam về cải cách kinh tế. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận việc Việt Nam dự định tham gia Công ước Cape Town về lợi ích quốc tế đối với thiết bị di dộng (CTC).
Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận tầm quan trọng của quan hệ thương mại ngày càng tăng giữa hai nền kinh tế và đặc biệt nhắc tới: Bản ghi nhớ giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ về hỗ trợ thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng ở Việt Nam, Thỏa thuận khung triển khai dự án phát triển mỏ Cá Voi Xanh ngoài khơi Việt Nam giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Công ty Exxon Mobil, Thỏa thuận hợp tác giữa Tổng Công ty thăm dò, khai thác dầu khí (PVEP) và Công ty dầu khí Murphy, Bản ghi nhớ giữa Công ty bảo hiểm Metropolitan Life (Metlife) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chấp thuận của Bộ Tài chính Việt Nam về chủ trương thành lập công ty quản lý quỹ của Công ty bảo hiểm ACE.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama hoan nghênh sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đối với các chương trình xây dựng năng lực và đào tạo nhằm giúp Việt Nam tiếp nhận và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, mang lại lợi ích cho nông dân, các công ty nông nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo vệ thành phần dân cư dễ bị tổn thương trong khi phát triển kinh tế, trong đó có việc cùng nhau đấu tranh chống lao động trẻ em và lao động cưỡng bức.
Hợp tác khoa học và công nghệ
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama trao đổi về tầm quan trọng của hợp tác khoa học và công nghệ. Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh cuộc họp lần thứ 8 của Ủy ban hỗn hợp về hợp tác khoa học và công nghệ sẽ được tổ chức vào mùa thu năm nay, nhấn mạnh các nỗ lực nhằm xây dựng quan hệ giữa các cộng đồng khoa học tại Việt Nam và Hoa Kỳ để tăng cường hợp tác song phương, ứng phó với biến đổi khí hậu và các thách thức toàn cầu khác, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên sự sáng tạo.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama tái khẳng định tiếp tục thúc đẩy hợp tác khoa học, trong đó có lĩnh vực năng lượng hạt nhân dân sự, công nghệ không gian và nghiên cứu biển. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh việc hai bên kết thúc thành công chương trình chuyển đổi thanh nhiên liệu có độ giàu uranium cao ra khỏi Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tiếp tục hợp tác để hỗ trợ chương trình năng lượng hạt nhân hòa bình của Việt Nam với các tiêu chuẩn cao nhất về bảo đảm an toàn, an ninh.
Hợp tác giáo dục
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí về sự cần thiết tăng cường hợp tác giáo dục, văn hóa và giao lưu nhân dân giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh sự gia tăng nhanh chóng số lượng sinh viên Việt Nam theo học tại các trường đại học và cao đẳng tại Hoa Kỳ và bày tỏ hy vọng ngày càng nhiều sinh viên Hoa Kỳ tìm kiếm cơ hội du học tại Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí rằng hợp tác chặt chẽ về giáo dục, đào tạo là nhân tố quan trọng trong giai đoạn tới của quan hệ giữa hai nước. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận việc thúc đẩy đào tạo tiếng Anh sẽ giúp Việt Nam cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu thế kỷ 21.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi nhận sự thành công của các sáng kiến giáo dục, trao đổi song phương, đặc biệt là chương trình Fulbright và Chương trình Liên minh Giáo dục Đại học ngành kỹ thuật (HEEAP). Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi nhận thành công của Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh sáng kiến thành lập trường Đại học Fullbright ở Việt Nam.
Môi trường và Y tế
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama hoan nghênh hợp tác song phương ngày càng tăng nhằm giảm khí thải nhà kính tại Việt Nam bằng việc gia tăng năng lượng sạch, hiệu suất năng lượng và lâm nghiệp bền vững và tăng cường khả năng của Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thảm họa thiên nhiên, trong đó có Chương trình Năng lượng sạch và Chương trình Rừng và Đồng bằng của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Tổng thống Obama tái khẳng định Hoa Kỳ cam kết tăng hỗ trợ về chăm sóc y tế và các hình thức chăm sóc, trợ giúp khác cho người khuyết tật vì bất cứ nguyên nhân nào ở Việt Nam.
Hai nhà Lãnh đạo đồng thời nhất trí hợp tác với các nước đối tác LMI thúc đẩy nghiên cứu khoa học, xây dựng năng lực và đối thoại để bảo đảm sức sống lâu dài và bền vững của đồng bằng sông Mê Công và lưu vực hạ nguồn sông. Tổng thống Obama đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Việt Nam trên cương vị đồng chủ tịch Trụ cột Môi trường và Nước trong khuôn khổ LMI, trong đó có hai đề xuất nghiên cứu chung của Việt Nam về quản lý nguồn nước lưu vực sông.
Hai nhà Lãnh đạo bày tỏ hài lòng về việc ký kết Hiệp định Hợp tác Y tế và Khoa học Y học gần đây và mong muốn thúc đẩy hợp tác y tế công nhằm tăng cường an ninh y tế toàn cầu. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đánh giá cao việc Chính phủ Hoa Kỳ, thông qua Kế hoạch cứu trợ khẩn cấp về phòng chống AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR), tiếp tục hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam nhằm xây dựng hệ thống phòng ngừa, điều trị và chăm sóc HIV/AIDS bền vững.
Các vấn đề hậu quả chiến tranh
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí rằng việc tăng cường hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh làm sâu sắc sự tin cậy lẫn nhau, cho phép hai nước phát triển mối quan hệ hướng tới tương lai. Tổng thống Obama đánh giá cao việc Việt Nam tiếp tục hợp tác tìm kiếm đầy đủ quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh. Tổng thống Obama tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam trong việc tìm kiếm bộ đội mất tích. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ghi nhận những đóng góp của Chính phủ Hoa Kỳ đối với các nỗ lực của Việt Nam trong việc rà phá các vật liệu nổ còn sót lại (UXO), hỗ trợ những nạn nhân bị thương do các vật liệu nổ còn sót lại, và ngăn chặn thương vong trong tương lai.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama bày tỏ sự hài lòng đối với những tiến triển của dự án tẩy độc đioxin tại sân bay Đà Nẵng giữa Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và Bộ Quốc phòng Việt Nam. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh các kế hoạch của Chính phủ Hoa Kỳ về việc tiến hành đánh giá về mức độ nhiễm độc đioxin đối với môi trường tại sân bay Biên Hòa.
Quốc phòng và An ninh
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hợp tác về quốc phòng và an ninh. Hai nhà Lãnh đạo bày tỏ sự hài lòng đối với Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương ký năm 2011 và tái khẳng định cam kết triển khai đầy đủ Bản ghi nhớ. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí tiếp tục Đối thoại chính sách quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ và Đối thoại Chính trị - An ninh - Quốc phòng song phương nhằm đánh giá quan hệ quốc phòng và an ninh và thảo luận về hợp tác trong tương lai.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí mở rộng hợp tác cùng có lợi nhằm tăng cường năng lực trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn và ứng phó thiên tai. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống và nhất trí hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong lĩnh vực chống khủng bố; tăng cường hợp tác thực thi pháp luật trên biển; đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, trong đó có chống cướp biển, buôn lậu ma túy, buôn bán người, buôn bán động vật hoang dã; ứng phó với tội phạm công nghệ cao và vấn đề an ninh mạng.
Tổng thống Obama hoan nghênh quyết định của Việt Nam tham gia Hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và nhấn mạnh Hoa Kỳ mong muốn hỗ trợ đào tạo và các hình thức hỗ trợ khác cho hoạt động này thông qua Sáng kiến hoạt động hòa bình toàn cầu (GPOI).
Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi nhận lợi ích của việc đối thoại thẳng thắn và cởi mở nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp khác biệt về quyền con người. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thông báo với Tổng thống Obama những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc thúc đẩy quyền con người, nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền của các tín đồ tôn giáo.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng khẳng định Việt Nam sẵn sàng ký Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc vào cuối năm nay và tuyên bố Việt Nam sẽ mời Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do tôn giáo và tín ngưỡng vào năm 2014. Hai bên tái khẳng định cam kết ủng hộ Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.
Văn hóa, du lịch và thể thao
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác văn hóa, thể thao và du lịch nhằm tăng cường giao lưu nhân dân và hiểu biết lẫn nhau. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận những thành công của người Mỹ gốc Việt và khuyến khích cộng đồng tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của quan hệ song phương. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama khuyến khích giao lưu nhân dân thông qua các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, hòa nhạc, triển lãm và các sự kiện văn hóa và thể thao khác giữa hai nước.
TTXVN
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét