Năm mươi năm nhìn lại
Cũng như những người già khác, tôi hay nhớ lại những kỷ niệm
của những ngày đã qua. Hôm nay tôi muốn viết lại để chia sẻ với bạn bè nhân
ngày gặp mặt sắp tới của lớp mình.
Năm 1960,
sau khi tốt nghiệp lớp 10 tại trường Trưng Vương tôi được xếp vào danh sách đi
học Đại học ở nước ngoài. Sang trường Ngoại Ngữ bên Gia Lâm khám sức khỏe thì
bị đuổi về vì “ Pi nhê 52 “ cao quá.. Tôi được chuyển về học ở Khoa Điện, ngành
Vô Tuyến Điện của trường Đại Học Bách khoa Hà Nội theo nguyện vọng cá nhân. Tôi
vào lớp VTD 60. Gặp bạn bè, tôi thấy ai ai cũng vui vẻ phấn khởi và hết sức tự
hào vì đã thi đỗ vào đây nơi mà yêu cầu trình độ học vấn rất cao ( Thi Toán
loại A+). Tôi thấy lo cho mình quá. Sinh viên trong lớp gồm nhiều các anh bộ
đội được cử đi học, các anh đều đã lớn tuổi, ngoài ra là sinh viên từ các tỉnh
về nên hầu hết là ở nội trú, chỉ có một số ít có gia đình ở Hà Nội như tôi là ở
ngoại trú.
Nhà tôi ở phố Hàn Thuyên, ngày ngày đạp xe đi học rồi về nhà
với Ba, cuộc sống thật vui vẻ và hạnh phúc.
Kỳ thi đầu tiên tôi đạt kết quả tốt, chỉ có bài kiểm tra
Toán của thầy Thái Thanh sơn là điểm 4 (không có điểm 5) còn các môn khác đều
điểm 5.. Sau kỳ thi anh Nguyễn Ngọc Anh , Bí thư chi bộ bảo là tôi phải vào nội
trú ở để học cùng với mọi người, tôi chấp hành ngay.
Nữ trong lớp có 8 người : Hồng Nhật, Thúy Hòa, Xuân Dung, Hồng
Loan, Kim Cúc, Huệ Vương và tôi. Cúc và Loan thì vẫn ở ngoại trú, 6 đứa còn lại
ở trong một phòng, các bạn đều có học bổng, riêng tôi không có, tôi phải xin Ba
tôi tiền đem đến đóng tiền ăn. Tiền này được sử dụng làm tiền ăn sang cho mọi
người. Buổi tối trước khi đi ngủ mọi người phải ghi vào một tờ giấy trên bàn
món ăn sang mà mình muốn ăn sáng để trực nhật sẽ mua về. Cơm thì 6 người ăn 5 xuất
cũng đã đủ.
Hàng ngày vào buổi tối chúng tôi phải sang nhà nam để học
nhóm. Tôi học nhóm với anh Duyên và Phước Tơn. Tôi có tính hay buồn ngủ nên anh
Duyên đã chiếm luôn phòng xép bên cạnh cho nhóm tôi học để tôi tha hồ ngủ, khi
nào cần hỏi gì thì đánh thức tôi dậy.
Hồi đó học Đại học mà chẳng có tài liệu gì để xem thêm và
tham khảo ngoài giáo trình của thầy. ( giá mà có mạng Internet như bây giờ thì
thật là tuyệt ). Giáo trình của thầy thì tôi thấy sao mà dễ quá. Tôi có tính là
nghe bài giảng trên lớp rất chăm chú ghi chép bài rất đầy đủ gần như không
thiếu một câu một chữ nào vì vậy mà khi học thi rất thuận lợi..
Tôi thường đọc lại một lần toàn bộ giáo trình, lần thứ 2
thì vừa đọc vừa ghi lại tên từng chương mục và từ lần sau là đã có thể thuyết
trình lại từ đầu đến cuối cả giáo trình.
Anh Quýnh là người rất thông mnh, học bài nhanh và hiểu bài
thấu đáo, nhưng anh bị bệnh đau đầu rất nặng nên hầu như trong các kỳ thi anh
không thể học ôn như mọi người.. Anh chỉ nằm trên giường trên, nhắm mắt lại để
chịu đau. Những lúc đó tôi thường đứng bên cạnh anh và đọc cho anh nghe từ đầu
đến cuối giáo trình môn phải thi. Thường chỉ cần đọc một lần thôi thế mà lúc
lên thì bắt được câu hỏi nào anh cũng đều trả lời được.
Kết thúc 4 năm học, khi làm luấn án tốt nghiệp tôi được phân về Phòng Kỹ Thuật của Tổng cục Bưu Điện. Thầy Phạm Văn Đương là người hướng dẫn của tôi. Thầy Phạm văn Đương có vợ người Nga, thầy ít khi đến phòng làm việc mà thường cùng vợ đi phơi nắng, Đề tài thầy giao cho tôi là : Nghiên cứu Thiết kế và chế tạo các mạch giao động cộng hưởng dùng Transistor. Tôi làm việc rất chăm chỉ và được các anh chị cán bộ trong phòng kỹ thuật nhiệt tình giúp đỡ. Tôi đã thiết kế lắp ráp nhiều phương án khác nhau, khảo sát hầu như tất cả các loại Transistor có ở phòng thí nghiệm, tôi đã cố gắng để có một bài luận văn tốt. Nhưng khi bảo vệ thì tôi chỉ được trình bầy một bài ngắn gọn còn sau đó là phần tranh cãi rất gay gắt giữa hai thầy : Phạm văn Đương và Dương văn Bẩy. Những cuộc tranh luận như thế này thì tôi đã rất quen thuộc vì nó xẩy ra thường xuyên trong mọi buổi sinh hoạt học thuật tại phòng Kỹ Thuật. Tôi chỉ có thể đứng nghe mà không nói được gì. Cuối cùng tôi được nhận điểm 4 và vì vậy mà điểm trung bình các môn trong cả 4 năm học của tôi là 4.8.
Kết thúc 4 năm học, khi làm luấn án tốt nghiệp tôi được phân về Phòng Kỹ Thuật của Tổng cục Bưu Điện. Thầy Phạm Văn Đương là người hướng dẫn của tôi. Thầy Phạm văn Đương có vợ người Nga, thầy ít khi đến phòng làm việc mà thường cùng vợ đi phơi nắng, Đề tài thầy giao cho tôi là : Nghiên cứu Thiết kế và chế tạo các mạch giao động cộng hưởng dùng Transistor. Tôi làm việc rất chăm chỉ và được các anh chị cán bộ trong phòng kỹ thuật nhiệt tình giúp đỡ. Tôi đã thiết kế lắp ráp nhiều phương án khác nhau, khảo sát hầu như tất cả các loại Transistor có ở phòng thí nghiệm, tôi đã cố gắng để có một bài luận văn tốt. Nhưng khi bảo vệ thì tôi chỉ được trình bầy một bài ngắn gọn còn sau đó là phần tranh cãi rất gay gắt giữa hai thầy : Phạm văn Đương và Dương văn Bẩy. Những cuộc tranh luận như thế này thì tôi đã rất quen thuộc vì nó xẩy ra thường xuyên trong mọi buổi sinh hoạt học thuật tại phòng Kỹ Thuật. Tôi chỉ có thể đứng nghe mà không nói được gì. Cuối cùng tôi được nhận điểm 4 và vì vậy mà điểm trung bình các môn trong cả 4 năm học của tôi là 4.8.
Ra trường, tôi nhận quyết định điều động đầu tiên là về
Phòng Kỹ Thuật Tổng cục Bưu Điện, nơi tôi đã làm luận văn tốt nghiệp. Nhưng sau
đó vì phải đổi cho Hồng Loan nên tôi được phân về dậy ở trường Trung cấp Bưu
Điện ở Hà Đông cùng với chị Hòa và anh Cát.
Tôi rất yêu nghề dậy học, hơn nữa trường lại rất gần Viện
Sốt Ret Ký Sinh trùng và Con Trùng nơi Ba tôi sống và làm việc. Hàng ngày tôi
đạp xe đi học rồi về với Ba, cuộc sống thật vui và hạnh phúc.
Thời kỳ này giặc Mỹ đã leo thang bắn phá miền Bắc rất ác
liệt. Trường Bưu Điện tổ chức một đoàn vào khảo sát tình hình thực tế tại vùng
biển miền Trung Diễn Châu, Nghệ An.
Máy bay ném bom liên tục ngày đêm. Các Ty Bưu Điện ở các
tỉnh đều được bổ xung các kỹ sư mới ra trường, chúng tôi thường xuyên gọi điện
cho nhau để biết tình hình của nhau.
Lúc này mong ước lớn nhất của tôi là được nhập ngũ, được
trực tiếp tham gia chiến đấu. Không ngờ mơ ươc đó đã nhanh chóng trở thành hiện thực, khi tôi trở về trường thì đã có giấy triệu tập nhập ngũ ở đó.
Trường Bưu Điện thì không đồng ý cho tôi đi và đã viết công văn xin giữ tôi ở lại với lý do là đã sắp xếp để tôi làm giáo viên cho hệ Đại Học bắt đầu từ năm sau.. Công văn được trả lời là : Lệnh gọi nhập ngũ đối với các Sỹ quan dự bị thì cá nhân sỹ quan phải chấp hành, không thể từ chối. Điều này thì chúng tôi đều biết vì trong quá trình học ở trường chúng tôi đã được dự khóa huấn luyện Sỹ quan dự bị, một khóa huấn luyện rất nghiêm túc và quy củ do Bộ Quốc phòng tổ chức.
Ngay sau đó chúng tôi đến tập trung ở Câu lạc bộ Lao Động để biên chế về các đơn vị. Đến đây tôi gặp nhiều bạn lớp mình và cả các bạn K6. Chúng tôi lên xe để về trương Sỹ Quan Thông tin bên Gia Lâm.
Hình ảnh bà ngoại tôi tóc bạc trắng xóa luôn đứng bên tôi và vẫy tay tiễn đưa tôi đã gây ấn tượng với nhiều người có mặt hôm đó.
Chúng tôi là những nữ Kỹ sư đầu tiên của Cục Thông tin, vì vậy ngay ngày hôm sau Thủ Trường Hoàng Niệm đã đến thăm chúng tôi. Quân nhu cũng đến ngay để may đo quần áo cho chúng tôi.
Chúng tôi được huấn luyện ở đây trong 2 tháng, vừa tập đội ngũ, mang vác hành quân, báo động ban đêm vừa học kỹ thuật về các khí tài, thết bị máy móc thông tin. Kết thúc khóa học chúng tôi được nhận quân hàm Thiếu úy. Tôi được phân về Phòng Kỹ thuật của Cục đóng ngay trong Thành. Chỉ có một mình tôi ở trong một phòng rộng nên rất buồn và sợ nữa. Ở cục 2 ( Quân báo) cũng có 2 nữ nhưng chúng tôi được phổ biến là không được quan hệ với nhau ( Thông tin và quân báo không được nói chuyện với nhau).
Hàng ngày tôi làm việc ở phòng Kỹ Thuật còn các buổi tối thì thường theo thủ trưởng đi kiểm tra và báo động tại các đơn vị.
Các bạn khác cùng nhập ngũ với tôi như : chị Vương, Tố Nga, Thu Sương, Xuân Thiên, Xuân Nùng đều về nhà máy Thông Tin trên Phú Thọ. Một vài lần tôi được cùng thủ trưởng lên thăm nhà máy, không khí làm việc của nhà máy làm tôi thích quá và cuối cùng tôi cũng xin được Thủ trưởng cho tôi về làm việc ở nhà máy.
Nhà máy lúc này có 2 phân xưởng, Phân xưởng Cơ khí và Phân xưởng Điện tử. Một Phòng Kỹ Thuật, có chuyên gia người Trung Quốc là Ông Tần.
Việc đầu tiên khi về nhà máy là tôi ngồi biên soạn các tài liệu để đào tạo công nhân cho Phân xưởng Điện tử. Với kiến thức đã được học ở Bách Khoa cùng với kiến thức của các đợt huấn luyện quân sự tôi đá soạn giáo trình này đễ dàng. Những máy thông tin ở nhà máy cần sửa chữa cũng tập trung vào những loại máy mà chúng tôi đã được học gần như thuộc lòng, như các máy PRC 25, P104...
Từ trước đến nay nhà máy đều làm việc theo kế hoạch, mà kế hoạch có hoàn thành được hay không lại phụ thuộc vào một số công nhân có tay nghề cao ( bậc 6,7 ). Ban lãnh đạo phân xưởng lúc nào cũng phải chiều chuộng số công nhân này, nếu họ không làm là kế hoạch không hoàn thành. Tình hình tuy đã được cải thiện đáng kể từ khi có các Kỹ sư Bách khoa về, tuy vậy tôi vẫn thấy việc tổ chức đào tạo cho công nhân trẻ nhất là cho lớp lính trẻ mới nhập ngũ vẫn là cơ bản và rất cần thiết.
Từ đó các lớp học đã được mở ra, các Kỹ sư đều tham gia giảng dậy, còn công nhân là học viên. Không khí toàn nhà máy sôi nổi hẳn lên. Ban ngày làm việc, tối đến các phân xưởng đều sáng đèn và các lớp học được tổ chức rất nghiêm túc. Sơ đồ mạch điện được phân tích rõ ràng, công nhân sửa chữa máy móc theo hiểu biết của mình chứ không phải mò mẫm hay học lỏm như trước.
Vào năm 1968 nhà máy cử một đoàn cán bộ sang học tại Học Viện Thông Tin Leningrat. Lúc đầu tôi cũng có danh sách trong đoàn này, sau biết là Học Viện không đào tạo nữ Sỹ quan nên tôi được chuyển sang đi đào tạo Nghiên cứu sinh theo đường nhà nước.
Sau 5 năm học ở trường TU Dresden của Cộng Hòa Dân chủ Đức, năm 1975 tôi tốt nghiệp về nước. Tôi rất muốn được quay về Bộ Tư lệnh Thông Tin, nhưng Cục Cán Bộ đã phân tôi về Viện Kỹ Thật Quân sự.
Lúc tôi về thì thủ trưởng Hoàng Đình Phu đang đi tiếp quản SG, thủ trưởng điện ra yêu cầu viện tổ chức cho tôi vào tiếp quản Trung Tâm Thông tin tại Bán Đảo Sơn Trà Đà Nẵng. Sau khi quay ra tôi lại vào Sài Gòn để tiếp quản Trung Tâm máy tính trong sân bay Tân Sơn Nhất.
Khi trở về Viện tôi làm việc tại Phân Viện điện tử do thủ trưởng Trần Thúc Vân làm phân viện trưởng và tôi được phân công phụ trách phòng Tự Đông hóa.
Một thời gian sau tôi được giao nhiệm vụ đi vận động các nhà khoa học bên ngoài nhà nước vào phục vụ trong Quân đội ( có lẽ vì chồng tôi ở trong diện này ). Tôi đã vận động được khá nhiều người, vì điều kiện nêu ra là quá tốt, ví dụ như : Phó Tiến sỹ thì được phong hàm Trung tá, Tiến sỹ thì Đại tá, được phân ngay căn hộ lắp ghép và có thể thu xếp để Vợ có việc làm trong Viện hoặc chuyển về Hà Nội nếu vợ con còn ở tỉnh lẻ.. ..
Phần đông số cán bộ này là các nhà Vật Lý Lý Thuyết. Vì vậy Phân Viện Năng lượng do Giáo sư Trân Hữu Phát làm phân Viện trưởng đã ra đời.
Đáng tiếc là vì quan niệm "Trọng Nam Kinh Nữ " của Thủ trưởng Phan Thu mà dù tôi đã cố xin cũng không được trở về Phân Viện Điện tử, nơi tôi làm việc thích nhất, hợp nhất và có nhiều gắn bó nhất.
Tôi phải ở Phân viện Năng lượng vì có chồng tôi ở đó chứ thực tế tôi không có chuyên môn nên chỉ làm công tác quản lý hay là làm hậu cần phục vụ cho mọi người.
Từ năm 1985 đến 1988 tôi được cử sang Liên Xô làm Cộng tác viên Khoa học tại Viện Dupna.
Năm 1988 thì Phân Viện Năng Lượng tách ra ngoài để sát nhập với Trung tâm Hạt Nhân Hà Nội Thành lập Viện Năng Lượng Quốc Gia do Giáo Sư Nguyễn Đình Tứ làm Viện Trưởng.
Tôi làm việc tại Viện Khoa Học và Kỹ Thuật Hạt Nhân cho đến lúc nghỉ hưu ...
Trong quá trình làm việc tại Viện, và ngay cả sau khi nghỉ hưu tôi liên tục tham gia vào công tác giảng dậy để đào tạo sinh viên ngành Vật Lý Hạt Nhân tại trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội và trường Tổng hợp Hà Nội. Ngoài ra tôi còn dậy nhiều năm ở trường Đại Học Dân lập Phương Đông và Đông Đô.
Trường Bưu Điện thì không đồng ý cho tôi đi và đã viết công văn xin giữ tôi ở lại với lý do là đã sắp xếp để tôi làm giáo viên cho hệ Đại Học bắt đầu từ năm sau.. Công văn được trả lời là : Lệnh gọi nhập ngũ đối với các Sỹ quan dự bị thì cá nhân sỹ quan phải chấp hành, không thể từ chối. Điều này thì chúng tôi đều biết vì trong quá trình học ở trường chúng tôi đã được dự khóa huấn luyện Sỹ quan dự bị, một khóa huấn luyện rất nghiêm túc và quy củ do Bộ Quốc phòng tổ chức.
Ngay sau đó chúng tôi đến tập trung ở Câu lạc bộ Lao Động để biên chế về các đơn vị. Đến đây tôi gặp nhiều bạn lớp mình và cả các bạn K6. Chúng tôi lên xe để về trương Sỹ Quan Thông tin bên Gia Lâm.
Hình ảnh bà ngoại tôi tóc bạc trắng xóa luôn đứng bên tôi và vẫy tay tiễn đưa tôi đã gây ấn tượng với nhiều người có mặt hôm đó.
Chúng tôi là những nữ Kỹ sư đầu tiên của Cục Thông tin, vì vậy ngay ngày hôm sau Thủ Trường Hoàng Niệm đã đến thăm chúng tôi. Quân nhu cũng đến ngay để may đo quần áo cho chúng tôi.
Chúng tôi được huấn luyện ở đây trong 2 tháng, vừa tập đội ngũ, mang vác hành quân, báo động ban đêm vừa học kỹ thuật về các khí tài, thết bị máy móc thông tin. Kết thúc khóa học chúng tôi được nhận quân hàm Thiếu úy. Tôi được phân về Phòng Kỹ thuật của Cục đóng ngay trong Thành. Chỉ có một mình tôi ở trong một phòng rộng nên rất buồn và sợ nữa. Ở cục 2 ( Quân báo) cũng có 2 nữ nhưng chúng tôi được phổ biến là không được quan hệ với nhau ( Thông tin và quân báo không được nói chuyện với nhau).
Hàng ngày tôi làm việc ở phòng Kỹ Thuật còn các buổi tối thì thường theo thủ trưởng đi kiểm tra và báo động tại các đơn vị.
Các bạn khác cùng nhập ngũ với tôi như : chị Vương, Tố Nga, Thu Sương, Xuân Thiên, Xuân Nùng đều về nhà máy Thông Tin trên Phú Thọ. Một vài lần tôi được cùng thủ trưởng lên thăm nhà máy, không khí làm việc của nhà máy làm tôi thích quá và cuối cùng tôi cũng xin được Thủ trưởng cho tôi về làm việc ở nhà máy.
Nhà máy lúc này có 2 phân xưởng, Phân xưởng Cơ khí và Phân xưởng Điện tử. Một Phòng Kỹ Thuật, có chuyên gia người Trung Quốc là Ông Tần.
Việc đầu tiên khi về nhà máy là tôi ngồi biên soạn các tài liệu để đào tạo công nhân cho Phân xưởng Điện tử. Với kiến thức đã được học ở Bách Khoa cùng với kiến thức của các đợt huấn luyện quân sự tôi đá soạn giáo trình này đễ dàng. Những máy thông tin ở nhà máy cần sửa chữa cũng tập trung vào những loại máy mà chúng tôi đã được học gần như thuộc lòng, như các máy PRC 25, P104...
Từ trước đến nay nhà máy đều làm việc theo kế hoạch, mà kế hoạch có hoàn thành được hay không lại phụ thuộc vào một số công nhân có tay nghề cao ( bậc 6,7 ). Ban lãnh đạo phân xưởng lúc nào cũng phải chiều chuộng số công nhân này, nếu họ không làm là kế hoạch không hoàn thành. Tình hình tuy đã được cải thiện đáng kể từ khi có các Kỹ sư Bách khoa về, tuy vậy tôi vẫn thấy việc tổ chức đào tạo cho công nhân trẻ nhất là cho lớp lính trẻ mới nhập ngũ vẫn là cơ bản và rất cần thiết.
Từ đó các lớp học đã được mở ra, các Kỹ sư đều tham gia giảng dậy, còn công nhân là học viên. Không khí toàn nhà máy sôi nổi hẳn lên. Ban ngày làm việc, tối đến các phân xưởng đều sáng đèn và các lớp học được tổ chức rất nghiêm túc. Sơ đồ mạch điện được phân tích rõ ràng, công nhân sửa chữa máy móc theo hiểu biết của mình chứ không phải mò mẫm hay học lỏm như trước.
Vào năm 1968 nhà máy cử một đoàn cán bộ sang học tại Học Viện Thông Tin Leningrat. Lúc đầu tôi cũng có danh sách trong đoàn này, sau biết là Học Viện không đào tạo nữ Sỹ quan nên tôi được chuyển sang đi đào tạo Nghiên cứu sinh theo đường nhà nước.
Sau 5 năm học ở trường TU Dresden của Cộng Hòa Dân chủ Đức, năm 1975 tôi tốt nghiệp về nước. Tôi rất muốn được quay về Bộ Tư lệnh Thông Tin, nhưng Cục Cán Bộ đã phân tôi về Viện Kỹ Thật Quân sự.
Lúc tôi về thì thủ trưởng Hoàng Đình Phu đang đi tiếp quản SG, thủ trưởng điện ra yêu cầu viện tổ chức cho tôi vào tiếp quản Trung Tâm Thông tin tại Bán Đảo Sơn Trà Đà Nẵng. Sau khi quay ra tôi lại vào Sài Gòn để tiếp quản Trung Tâm máy tính trong sân bay Tân Sơn Nhất.
Khi trở về Viện tôi làm việc tại Phân Viện điện tử do thủ trưởng Trần Thúc Vân làm phân viện trưởng và tôi được phân công phụ trách phòng Tự Đông hóa.
Một thời gian sau tôi được giao nhiệm vụ đi vận động các nhà khoa học bên ngoài nhà nước vào phục vụ trong Quân đội ( có lẽ vì chồng tôi ở trong diện này ). Tôi đã vận động được khá nhiều người, vì điều kiện nêu ra là quá tốt, ví dụ như : Phó Tiến sỹ thì được phong hàm Trung tá, Tiến sỹ thì Đại tá, được phân ngay căn hộ lắp ghép và có thể thu xếp để Vợ có việc làm trong Viện hoặc chuyển về Hà Nội nếu vợ con còn ở tỉnh lẻ.. ..
Phần đông số cán bộ này là các nhà Vật Lý Lý Thuyết. Vì vậy Phân Viện Năng lượng do Giáo sư Trân Hữu Phát làm phân Viện trưởng đã ra đời.
Đáng tiếc là vì quan niệm "Trọng Nam Kinh Nữ " của Thủ trưởng Phan Thu mà dù tôi đã cố xin cũng không được trở về Phân Viện Điện tử, nơi tôi làm việc thích nhất, hợp nhất và có nhiều gắn bó nhất.
Tôi phải ở Phân viện Năng lượng vì có chồng tôi ở đó chứ thực tế tôi không có chuyên môn nên chỉ làm công tác quản lý hay là làm hậu cần phục vụ cho mọi người.
Từ năm 1985 đến 1988 tôi được cử sang Liên Xô làm Cộng tác viên Khoa học tại Viện Dupna.
Năm 1988 thì Phân Viện Năng Lượng tách ra ngoài để sát nhập với Trung tâm Hạt Nhân Hà Nội Thành lập Viện Năng Lượng Quốc Gia do Giáo Sư Nguyễn Đình Tứ làm Viện Trưởng.
Tôi làm việc tại Viện Khoa Học và Kỹ Thuật Hạt Nhân cho đến lúc nghỉ hưu ...
Trong quá trình làm việc tại Viện, và ngay cả sau khi nghỉ hưu tôi liên tục tham gia vào công tác giảng dậy để đào tạo sinh viên ngành Vật Lý Hạt Nhân tại trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội và trường Tổng hợp Hà Nội. Ngoài ra tôi còn dậy nhiều năm ở trường Đại Học Dân lập Phương Đông và Đông Đô.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét