NẤM NGỌC HƯƠNG
THIỀN
Huyền Lam
Miền Tây bắc Hoa Kỳ núi rừng hùng vĩ, nơi đây mưa nhiều do gần Thái Bình Dương. Cũng chính vì yếu tố thiên nhiên này, rừng núi ở đây có vô số loài nấm mọc, trong đó có loài cực kỳ quý hiếm. Là thành viên của Hiệp hội Nấm rừng, người viết thường có những chuyến đi khảo sát.
Trong một lần dừng chân tại thị trấn nhỏ dưới rặng núi
Cascade, khi tiếp xúc người dân địa phương để tìm hiểu đặc chủng nấm trong
vùng, người viết được kể cho nghe về câu chuyện một thiền sư sống đơn độc giữa
núi rừng. Người viết xin ghi lại câu chuyện đầy xúc cảm này như một món quà
xuân dành tặng quý độc giả .
Thị trấn Ran nhỏ bé, khoảng vài trăm cư dân, nằm giữa
rừng già đại ngàn, không xa lắm là dãy núi Cascade hùng vĩ mùa đông phủ tuyết.
Mười năm trước, dân nơi đây bàn tán về người đàn ông tuổi ngoài 70 nhưng dáng
dấp khỏe mạnh, nhân cách nhẹ nhàng vi diệu như một ông tiên. Cứ mỗi độ hoa lê
rừng nở trắng xóa trên triền núi, người dân lại thấy ông lái chiếc xe pickup cũ
từ đường mòn trên núi cao vào trung tâm thị trấn rồi dừng tại nhà dưỡng lão
dành cho người nghèo.
Mỗi tuần ông đến đây hai lần, từ sáng sớm cho đến chiều.
Ông nấu cho người già ăn, đánh dương cầm cho người già nghe, chỉ cho họ cách
đi, cách ngồi, cách thở. Mà lạ thay, ông làm việc gì cũng chậm rãi nhưng đầy
năng lượng tươi vui. Mỗi lần có ông, nhà dưỡng lão bừng lên sức sống, được thay
luồng khí mới. Các cụ già ánh mắt rạng ngời, nụ cười rạng rỡ như những đóa hoa
vừa được tưới tẩm tình thương.
Khi lá rừng chuyển sang màu vàng cũng là lúc người dân
thị trấn không còn thấy ông nữa. Các cụ già cố gắng làm theo lời ông chỉ dẫn để
cuộc sống an lạc, tâm linh hơn. Nhưng không có ông, nhà dưỡng lão như mất đi lò
sưởi ấm mùa đông, trở nên trầm buồn lạnh lẽo. Các cụ già từng ngày nhìn ra
khung cửa sổ giữa màu tuyết trắng mênh mông lại mỏi mắt trông chờ những cánh
hoa lê rừng nở trắng.
***
***
Ông Ken từng thọ giáo, học thiền, học Phật nhiều năm từ
Đức Dalai Lama, Thiền sư Suzuki. Ông vốn là nhà khoa học nghiên cứu về tác động
môi trường từ chất thải hóa học do con người tạo ra. Một hôm đọc tập san chuyên
ngành Khoa học Môi trường, trong đó có bài nói về triết lý Phật giáo nhấn mạnh
đến mối tương quan, tương tức của vạn vật đã làm ông ngạc nhiên về tính khoa
học của một tôn giáo mà trước đây ông cho là quá cổ xưa lạc hậu.
Ông không ngờ từ ngàn xưa tôn giáo ấy đã biết quý trọng
cây cỏ mọi loài sinh linh và chỉ ra mối liên hệ mật thiết cần bảo vệ. Từ đó ông
tìm hiểu về Phật giáo nhiều hơn. Ông đã trải qua từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác khi nghiên cứu kho tàng kinh điển bao la của đạo Phật. Ông quyết
định trở thành người con Phật sau chuyến du hành sang Dharamshala - Ấn Độ dự
khóa tu do ngài Dalai Lama giảng dạy.
Trước khi về hưu, ông tìm mua khu đất rừng rộng mấy mươi
ha trên triền núi dãy Cascade miền Tây bắc Hoa Kỳ. Ông cho dựng căn nhà nhỏ làm
bằng cây rừng thô ghép lại (cabin). Đây là ước mơ bao năm của ông có được nơi
yên tĩnh, hoang dã để tu tập và viết những bài nghiên cứu cho các tạp chí Phật
giáo bằng Anh ngữ. Dù đã về hưu nhưng ông rất tinh tấn, năm giờ sáng ông thức
dậy pha trà, đốt nén hương ngồi thiền. Sau buổi ăn sáng, ông thiền hành, thả bộ
theo con suối bên hông nhà xuống cánh rừng sồi phía dưới.
Trong một buổi thiền hành cuối thu, ngồi nghỉ chân bên bờ
suối ngắm nhìn cánh rừng ngợp lá vàng bay trước mặt, ông thấy mấy chú sóc từ
trên cây leo xuống, vừa đi chậm rãi vừa đánh hơi thảm lá vàng dưới đất. Chợt
chúng dừng chân, moi lên dưới thảm lá mục những viên củ rừng to bằng trứng chim
cút, có viên to bằng quả chanh rồi đem về tổ trên cây cao cất giấu.
Tò mò, ông tới nơi chúng đào, dùng nhánh cây rừng khơi
xung quanh, vài viên củ rừng trăng trắng hiện ra. Ông đưa lên mũi, thoang
thoảng mùi hương nhẹ phảng phất. Như không tin vào thính giác mình, ông đem
xuống bờ suối dùng hòn đá có góc cạnh bén cắt đôi, hương thơm theo vết cắt lan
tỏa đậm đà, một thứ hương không nồng, không nặng, rất nhẹ nhàng tinh tế dễ
chịu. Ông Ken thầm thốt lên: - Nấm truffle.
Ông không ngờ cánh rừng do mình làm chủ có loại nấm vô
cùng quý hiếm này, mỗi ký được bán lên tới cả 5-10 ngàn USD. Đây là loài thực
phẩm mắc nhất thế giới. Ông quay lại chỗ sóc đào, lượm thêm một viên nấm rồi
tiếp tục thiền hành trở về nhà. Sau khi rửa sạch, ông thành kính bỏ viên nấm
vào dĩa dâng lên bàn thờ Phật như dâng lên viên ngọc quý báu ban tặng từ đất
trời.
Suốt ngày đó, ông vẫn làm những công việc bình thường,
mỗi khi ý niệm truffle phấn khích nổi lên, ông theo dõi hơi thở, điều tâm thanh
tịnh trở lại. Hôm sau, thay vì thắp nhang lễ Phật trước khi ngồi thiền như
thường lệ, ông cắt một phần viên nấm thành những lát mỏng thay thế mùi nhang.
Trong thiền phòng giữa không gian yên tĩnh núi rừng trùng điệp, mùi hương nấm
nhẹ nhàng lan tỏa. Khi hơi thở đã rất nhẹ rất sâu, tâm đã lắng đọng trong sáng,
ông Ken bắt đầu suy nghĩ phải làm gì với kho báu giữa rừng già?
Ông đã bỏ tất cả để tìm đến chốn này, tiền hưu trí hàng
tháng ông dùng chỉ một phần rất nhỏ, hầu hết gởi tặng các tu viện, cơ sở thiện
nguyện. Không khéo cánh rừng này sẽ đốt tan công phu tu tập của ông, trở thành
nơi tranh chấp gây tạo ác nghiệp.
***
***
Mùa thu khi lá phong, lá sồi chuyển sang màu vàng cam rực
rỡ cũng là lúc ông Ken bắt đầu thu hoạch truffle. Đối với người chuyên môn tìm
loại nấm quý này, họ luôn sử dụng chó hoặc heo để phát hiện những viên nấm được
giấu kín dưới lớp thảm mục rừng. Riêng ông Ken cách tìm nấm cũng không khác chi
hành thiền.
Mỗi ngày ông thiền hành đến cánh rừng, chọn một chỗ khác
hôm qua, ngồi xuống hít thở khí trời, nghe tiếng chim hót líu lo, nhìn những
chú sóc nhỏ chạy tung tăng tìm nấm. Ông chờ chúng lấy xong, tới chỗ chúng đào
lấy những viên nấm còn sót lại xung quanh. Loài sóc đã quen hình dáng ông bao
năm qua nên không hề có chút sợ hãi. Từ ngày thấy ông “mót” nấm mà không tranh
giành với chúng, loài sóc hiểu được. Chúng thương ông, đào nhiều nơi nhưng lấy
đi rất ít, như làm dấu giúp ông thu hoạch tốt hơn.
Mùa nấm truffle kéo dài 2 tháng, bắt đầu từ cuối tháng 9
đến cuối tháng 11. Mỗi tuần ông Ken thu hoạch được vài ký, ông bán hết cho nhà
thu mua, chỉ giữ lại một ít thay nhang cúng Phật mỗi sáng ngồi thiền. Ông gởi
trọn số tiền bán nấm thông qua trương mục vô danh cho viện dưỡng lão dưới chân
núi nơi ông thường làm việc thiện nguyện.
***
Mùa xuân năm ấy, khi hoa lê rừng nở trắng trên triền núi,
các cụ già trong viện dưỡng lão lại háo hức chờ đón ông Ken. Một tuần qua, hai
tuần qua, hoa lê đã rụng tàn, màu xanh lá rừng đã trỗi dậy nhưng ông Ken vẫn
không xuất hiện. Người dân thị trấn Ran xôn xao bàn tán không biết chuyện gì đã
xảy ra trên núi cao. Họ vận động chính quyền địa phương cùng cư dân dành một
ngày cuối tuần lên núi tìm hiểu sự tình.
Sáng sớm, đoàn xe vài chục chiếc chậm rãi theo con đường
mòn gồ ghề đầy sỏi đá tiến vào dãy núi Cascade. Trên con đường độc đạo hoang
vu, giữa lưng chừng núi, căn nhà gỗ đơn sơ đậm nét dưới ánh mặt trời. Viên cảnh
sát thị trấn (Sheriff) dẫn đầu cho xe dừng lại, đi bộ đến căn nhà có nhiều cỏ
dại mọc cao như báo hiệu đã lâu không ai chăm sóc. Viên cảnh sát gõ nhẹ cửa
nhiều lần nhưng không tiếng trả lời. Bỗng người dân đi theo hốt hoảng la lên
bên cánh cửa sổ hông nhà:
- Coi kìa! Có phải ông Ken?
Phía sau khung kiếng bụi mờ, một thân thể bất động da
nhăn khô đang ngồi trước tượng Phật cổ xưa. Viên cảnh sát phá vội ổ khóa cánh
cửa ra vào: Mùi hương thơm từ trong nhà thoát ra làm mấy chục cư dân thị trấn
Ran ngạc nhiên trầm trồ. Bước vào trong, bên cạnh thân thể khô cứng đang nhập
định còn có nhiều khay đựng đầy nấm truffle thái mỏng đã khô nhưng vẫn tỏa mùi
hương ngào ngạt.
Người ta tìm thấy tờ di chúc để lại trên bàn Phật, ông
hiến tặng toàn bộ đất đai tài sản cho viện dưỡng lão, đồng thời tiết lộ điều bí
mật được giữ kín lâu nay về cánh rừng có nấm truffle. Ông cẩn thận ghi chép
điều kiện bắt buộc để nhận tài sản là phải có một ủy ban giám sát khai thác nấm
truffle theo cách ông làm: Tôn trọng và bảo vệ loài sóc trước khi thu hoạch cho
loài người vì chúng là chủ nhân đầu tiên kho báu này.
Mọi người không ngờ chính ông là nhà hảo tâm vô danh đóng
góp tài chánh duy trì viện dưỡng lão nhiều năm qua! Ngày làm lễ hỏa thiêu
rải tro bên bờ suối theo lời ông dặn trong di chúc, thị trấn Ran hầu như tham
dự không thiếu một người. Từ cậu bé nhà nghèo bỏ báo buổi sớm mai cho đến cụ
già trong viện dưỡng lão đều được giúp đỡ phương tiện lên núi. Lần đầu tiên cư
dân thị trấn Ran gắn bó chăm sóc lẫn nhau như đại gia đình.
Đoàn xe hơn trăm chiếc chậm chạp trên con đường gồ ghề
tiễn ông đi. Cư dân khóc sướt mướt, thương mến cảm phục một nhân cách vi diệu
sống trọn đời không những cho tha nhân mà ngay cả muôn loài.
Huyền Lam (Hoa Kỳ)
Huyền Lam (Hoa Kỳ)
(Giác Ngộ Xuân Ất Mùi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét